Nhà văn - Nhà Báo - Bùi Quang Thanh

NGƯỜI ANH HÙNG CỦA CHÚNG TÔI

22:00, 18/09/2022bqtTruyện - Ký
(0 Đánh giá)
Bút ký của Bùi Quang Thanh

            NGƯỜI ANH HÙNG CỦA CHÚNG TÔI

                                                                Bút ký

                      

    Nhà thơ Hữu Thỉnh trong một lần về Hà Tĩnh bảo tôi:

- Cậu đưa tớ về thăm một người bạn ở Cẩm Thành nhé.

    Người bạn của nhà thơ Hữu Thỉnh là đại tá Trần Xuân Kiểu, nguyên Chính ủy Trường sĩ quan thiết giáp ngày nào. Hôm đó, trong phút hàn huyên ngắn ngủi của hai người lính, tôi được nghe họ nhắc đến cái tên rất thân quen với tôi: Thiếu tá Bùi Quang Đấng, người đồng đội của họ, người lính kỳ cựu của binh chủng thiết giáp, người Tham mưu trưởng Lữ đoàn tăng 273 trực tiếp chỉ huy mũi đột phá của xe tăng ta từ hướng Tây - Bắc Sài Gòn vào dinh Độc Lập buổi trưa lịch sử 30/ 4/1975.

    Cách đây mấy ngày, khi vào thăm ông, đại tá Trần Xuân Kiểu tiếp tôi những miếng ổi vườn thơm lựng. Ông hỏi tôi:

    - Ông Đấng về hưu có khỏe không? Sao cậu chưa khi nào viết về người đồng hương họ hàng nhà cậu? Đánh đấm thì phải hỏi cha ấy, cậu ạ!

    Chiều đó, tôi phóng xe về thị trấn Cẩm Xuyên, tìm vào nhà ông bác họ nằm sâu trong xóm lúa.

    Thuở còn học cấp hai trường làng, tôi từng nghe rì rầm lời bà con họ hàng, bạn bè chòm xóm nói về những chiến công của ông. Khi thì nghe đồn xe tăng ông đánh địch bên Lào, khi nghe ông xuất trận ở làng Vây, Quảng Trị; rồi lại nghe ông ở mãi đâu tận Tây Nguyên. Trong trí nhớ của lũ trẻ choai chúng tôi ngày đó, ông là một thanh niên chắc đậm, vai rộng mày xiên, ít lời nhưng có vẻ nóng nảy. Cái ngoại tướng đó thật hợp với bộ quân phục binh chủng xe tăng trong những bức ảnh ông gửi từ xa về cho o Hường - vợ ông - một cô giáo dạy cấp hai xinh đẹp, nết na.

     Xe tăng ta tiêu diệt cứ điểm Làng Vây (1967), rượt xe tăng địch ở Đường 9 - Nam Lào (1971), đè nát tuyến phòng thủ Bắc Kon Tum ở Đắc Tô - Tân Cảnh, tiêu diệt căn cứ Plây Cần, Đắc Min (1972), tham chiến giải phóng Buôn Ma Thuột (1975). Xe tăng cùng bộ binh cơ giới đuổi địch siêu thần tốc, đập nát Đồng Dù, đánh chiếm Tân Sơn Nhất, húc đổ cổng dinh Độc Lập và những người lính xe tăng quang vinh cắm cờ giải phóng lên nóc thủ phủ chính quyền ngụy đã đi vào lịch sử kháng chiến của dân tộc. Nhưng cho đến nay, tôi vẫn chưa một lần biết chi tiết về người bác họ của tôi đã làm gì ở vị trí tiên phong trong cuộc hành tiến có một không hai ấy.

    Ông bà Đấng rất mừng khi tôi về. Cả bé Bình đang học lớp 7 cũng vui ra mặt. Bé xăng xái chạy xách nước rót mời. Ngồi chưa nóng chỗ đã nghe tiếng gà đập cánh dưới bếp.

    Thấy ông xắn tay mổ gà, tôi dắt xe phóng sang nhà Hoàng Cấp, hắn là lính trinh sát kỹ thuật ở C152 Phòng tham mưu B3 từ năm 1970 cho đến ngày xuống núi về Sài Gòn. Sau ngày ra quân trở về quê nhà, Cấp và tôi thường đi lại với ông Đấng. Không cùng tuổi tác, địa vị, nhưng ông coi chúng tôi như em, như bạn, sống gắn bó đến sỗ sàng. Trong bao lần hàn huyên, nhắc đến thuở đánh đấm gian nan, ông chỉ ngồi nghe, phụ chuyện. Chẳng mấy khi ông kể về mình. Tôi bảo Cấp:

    - Cậu ngồi với ông ấy, moi lại kỷ niệm thời chiến trường. Đặc biệt xoay quanh đêm hai chín và sáng ba mươi tháng tư nhé.

    Gật gù bên chiếu rượu tối ấy có cả Bằng, cháu rể ông Đấng. Hoàng Cấp bâng quơ:

    - Bây giờ đã là đầu tháng tư rồi, chóng thật. Cách đây hăm ba năm, ngày này, đơn vị của bác đang làm gì, ở đâu chứ bọn em đang xuôi đường hăm mốt xuống Nha Trang.

    Ông Đấng lim dim mắt:

    - Để xem nào! Sau giải phóng Buôn Ma, bọn tớ cũng đi theo đường đó về Nha Trang, giải phóng Cam Ranh rồi quành lên Lâm Đồng, Đà Lạt; lại băng rừng về hướng Tây Bắc Sài Gòn theo quốc lộ 13 trong đội hình Quân đoàn 3 đánh Dầu Tiếng, Tây Ninh.

    - Thế là bọn em cũng theo sát chân các bác. Đến Đồng Dù thì chững lại chờ xe tăng giải quyết.

    Tôi như chợt nhớ:

    - A! Đó là đêm hăm lăm hay hăm sáu gì bác nhỉ? Tiểu đoàn ô tô của bọn cháu cũng bám theo xe tăng.

    - Đêm hai bảy. Đối mặt với lữ tăng 273 và sư 320 là sư 25 ngụy. Các cậu biết nhé: hàng rào dây kẽm gai dày trăm rưỡi mét, cao hai mét bao quanh căn cứ. Trong các lớp rào có đến bốn tuyến hào chống tăng sâu mét rưỡi, rộng hai mét.

    Tôi ngắt lời ông:

    - Thế lúc đó bác ở tiểu đoàn nào trong lữ?

    Mắt ông sáng lên:

    - Tớ là Tham mưu phó Lữ đoàn được giao trực tiếp chỉ huy Dê ba (D3).

    - Cụ thể một tý. Bác đi xe gì? Gồm những ai? Trang bị?

    - Chiếc xe chỉ huy là loại bọc thép K83 của Trung Quốc. Ngoài tổ chiến đầu và lái, còn có sở chỉ huy hành quân: anh Lê Minh, tham mưu trưởng Quân đoàn 3, anh Nguyễn Quốc Thước, Phó tham mưu trưởng Quân đoàn 3, anh Bùi Đình Hòe, Sư phó sư 320 và tớ. Tiểu đoàn 3 xe tăng có nhiệm vụ là mũi nhọn đột kích tiên phong. Đến sáng 30.4, có thêm cô biệt động Trung Kiên cùng đi.

    Bằng ngắt lời ông Đấng:

    - Cháu thấy trong phim "Cô Nhíp" thì cô gái biệt động Trung Kiên đi cùng xe tăng T54 cơ mà. Sao ông bảo cô ấy đi xe bọc thép?

    Tôi lo lắng. Ông Đấng nhíu mày, vỗ vỗ vào vầng trán rộng đầy nếp gấp của thời gian. Ông gắt:

    - "Cô Nhíp" là phim truyện, mà phim truyện thì họ có quyền hư cấu.

    Rồi ông quay sang tôi:

    - Khoảng gần bốn giờ sáng ngày 30.4, cô ấy được dẫn đến chỗ chúng tôi. Ai dẫn đến tớ không rõ vì lúc đó Sư phó Bùi Đình Hòe đã làm việc với cấp trên nhận lệnh. Cô ấy mặc bộ bà ba màu sẫm, đội mũ tai bèo và nhanh nhẹn trèo vào xe chỉ huy. Đúng bốn giờ, theo sự hướng dẫn của Trung Kiên, toàn đơn vị đồng loạt xuất kích tiến đánh sân bay Tân Sơn Nhất. Đảm nhiệm hướng công kích chính vào mặt đông sân bay cùng Tiểu đoàn 3 xe tăng có Trung đoàn 28 Sư 320. Trong trận giáp chiến ở Bà Quẹo, xe tăng T54 của C8 ép sát một tăng M48 của địch. Hai khẩu pháo giao nhau, bánh xích xe ta chồm lên xích xe địch. Bọn địch tháo chạy bỏ cả xe. Khoảng 9 giờ sáng thì ta chiếm xong sân bay và trụ sở Bộ chỉ huy của địch.

    Như theo đà tiến của đoàn quân chiến thắng, ông say sưa:

    - Từ Tân Sơn Nhất tiến vào dinh Độc Lập, những xe gần với xe tớ không gặp sức kháng cự nào đáng kể. Những xe đi trước đã giải quyết hết các ổ đề kháng trên đường. Hợp điểm trước cổng dinh có xe tăng của lữ 273 và cả lữ 203 thuộc Quân đoàn 2, họ tiến vào từ xa lộ Sài Gòn. Chính ủy lữ đoàn 203 Bùi Xuân Tùng đã có mặt ở đó.

    Cậu Bằng vặn vẹo đôi bàn tay:

    - Thế xe tăng nào đã nã đạn vào dinh Độc Lập hôm ấy vậy bác?

    - Tớ cũng chẳng biết nữa. Xe nào chẳng gắn pháo, xe nào cũng đầy đạn. Bắn vào địch là nhiệm vụ của thằng lính. Từ Buôn Ma Thuột vào Sài Gòn có xe nào mà không bắn. Vì vậy chẳng mấy ai quan tâm tìm hiểu chuyện ấy.

    Bà Hường - vợ ông, nãy giờ ngồi hóng chuyện, giục mấy bác cháu nhâm nhi món gà luộc bóp lá chanh, cười:

    - Mà có biết, ông ấy cũng quên rồi. Sau ngày giải phóng miền Nam, ông theo học ở Đà Lạt rồi sang giải phóng Ph.nôm pênh; lại về bảo vệ biên giới phía Bắc nằm mãi Lạng Sơn, Cao Bằng. Tôi ở nhà đây, có mấy chục tấm Huân chương ông gửi về rồi cũng để mối mọt xông mất. Ông giữ sao được bao nhiêu sự kiện trong cái đầu sứt kia.

    Tôi sờ lên vết sẹo phía bên trái đầu ông:

    - Kỷ niệm trận nào vậy bác?

    - Miếng này ở Buôn Ma Thuật bảy lăm, khi tớ ra khỏi xe tăng, dùng cờ làm tín hiệu hiệp đồng với bộ binh đánh vào sân bay Phượng Hoàng. Máu ra nhiều nhưng không phạm gáo dừa nên chỉ sau mấy ngày là tớ đã có mặt trong đội hình thần tốc và chứng kiến cảnh pháo tăng bắn chìm tàu chiến địch ở Cam Ranh.

    Ông quay Cấp, vỗ vai hắn:

    - Cũng tại trinh sát điều nghiên không kỹ nên đánh không trúng sở chỉ huy Sư 23 ngụy ngay từ đầu. Trận này mũi của tớ vất vả lắm mới hoàn thành nhiệm vụ.

    - Em có đọc tờ báo nào đó nói về chiến công của bác ở trận Buôn Ma.

    - Báo Quân đội, báo Nhân dân đều có nhắc đến. Mẹ Hường còn giữ được không nhẩy?

    Bà Hường chạy vào buồng, đưa ra một tệp giấy khá dày bọc trong bao ni lông cứng:

    - Báo không còn nữa. Chỉ có chừng này ông mang về khi nghỉ hưu thôi.

    Tôi ngồi lật giở những tờ giấy mỏng, những chứng nhận, ghi nhận, khen thưởng ông ở các chiến trường, các chiến dịch lịch sử mà ông đã tham gia. Chao ôi! Từng ấy sự kiện, chừng ấy sự tích, chừng ấy gian lao gói gọn trên lưng một người lính chiến.

   *

    Tôi chợt rưng rưng buồn khi nhớ lại rằng: nếu không có sự nhiệt tình đến ngớ ngẩn của chúng tôi thì giờ đây, chắc ông đang là một sĩ quan cao cấp của quân đội.

    Vào quãng năm 1983, ông bác họ tôi đang là Lữ đoàn phó Lữ tăng 273 chốt tận biên giới Lạng Sơn. Một lần thằng Hùng, con trai đầu lòng của vợ chồng ông bị ốm nặng với chứng viêm não và ông phải nghỉ phép một thời gian để chữa chạy cho đứa con trai. Cũng vào dịp đó, đơn vị ông cho một xe tải chở 5 tấn than bùn Thái Nguyên để về giúp ông đổi gạch xây nhà. Chừng ấy than, xí nghiệp gạch ngói huyện đổi cho 5 ngàn viên gạch thẻ, đủ để xây bao quanh một căn nhà hai gian. Nhưng vốn liếng chỉ có ngần ấy. Những đồng tiền mà vợ chồng ông dành dụm bấy lâu, trận ốm của cu Hùng kéo đi hết cả. Một bữa tôi từ thij xã Hà Tĩnh về, ông bảo tôi:

    - Cậu xem ở thị xã có chiếc xe tải nào chờ hàng ra Hà Nội mà chạy không về thì thuê cho anh một chuyến (ông vẫn gọi tôi là "cậu" xưng "anh" bởi tôi có họ hàng với bà Hường).

    - Để làm gì hở bác?

    - Anh có đứa bạn ở Hà Nội có 3 bộ vì kèo sắt của căn nhà cũ không dùng nữa, hứa cho anh. Nếu có xe chở về được thì sẵn gạch đó có thể xây cho mẹ con thằng Hùng căn nhà tàm tạm. Cậu xem, tranh mía, tranh rạ gì cũng nát bét cả rồi.

    Tôi nghĩ nát đầu, không tìm ra cách gì giảm được giá cho chuyến xe để giúp ông. Thằng Đấu, em ruột của ông hiến kế với tôi và Cấp:

    - Tớ có một con bê cái, Cấp có hai mẹ con bò, thằng Đê thì có cặp bò của chị Thắng. Nếu ta bàn thủng được các bà xã và chị Thắng, mày (Đấu chỉ tôi) chịu trách nhiệm thuê một chuyến xe chở cả ra Hà Nội bán. Ta lấy vốn về trả các bà, phần lãi bù vào tiền thuê xe chở kèo sắt cho ông ấy. Được không?

    Tôi phân vân:

    - Đành là bò nhà, nhưng làm sao mang được ngần ấy con ra Hà Nội. Phòng thuế, công an, kiểm dịch thú y… họ trị chết.

    Đấu cười:

    - Yên chí đi. Tớ biết trong xà cột của ông Đấng có giấy giới thiệu đóng dấu Quân đội, giấy khống chỉ nhé. Tao sẽ nẫm một tờ ghi là đưa bò từ trại tăng gia của đơn vị ra cho bộ đội ăn tết ở các chốt biên giới Việt - Trung. Phải bí mật không để ông ấy biết việc này nhưng lại phải có ông ấy ngồi trong xe thì mới lọt được.

    Tôi không ngờ thằng Đấu lại ma thế. Nó từng là lính bộ binh đánh nhau ở B2, bị thương vào đầu, sọ não bị vỡ và phát điên, vác trung liên cá nhân chạy giữa hai làn đạn ta và địch, được đồng bào biên giới Việt - Miên cứu chữa đến nay vẫn chưa bình thường. Hóa ra nó vẫn tỉnh hơn bọn tôi.

    Kế hoạch được bí mật tiến hành. Tôi dùng giấy giới thiệu mà Đấu lấy của ông Đấng, ra ký hợp đồng thuê một chiếc xe “Zin khơ” bệ tải của Công ty ô tô tỉnh. Tôi mời ông Đấng cùng đi theo xe ra Hà Nội để lấy vì kèo sắt về.

    Có một viên Thiếu tá xe tăng oai vệ ngồi trên ca bin, chiếc xe của chúng tôi được sự ưu ái của công an, các trạm kiểm soát, thuế vụ, đi thẳng ra Thường Tín. Ông Đấng chẳng một chút nghi ngờ về việc làm của chúng tôi, để mặc chúng tôi giải quyết đàn bò, ông gửi cái xà cột lại nhờ tôi giữ hộ, rồi đến nhà người bạn chuẩn bị mấy vì kèo mà bạn đã hứa cho.

    Chúng tôi mất mấy ngày chạy xe từ Thường Tín lên Hà Nội, vào cả lò mổ Mai Động, ra tận bãi cỏ Thanh Trì để gạ bán bò. Ở nhà cứ tưởng đem được bò ra Hà Nội là ăn tiền, ai ngờ có đồng nào thì mua xăng cho ô tô, chi ăn uống cho cả đám, mua rau mua cám để nuôi bò. Cuối ngày thứ tư của chuyến đi, chúng tôi phần thì sốt ruột, thối chí, phần thì lái xe giục phải về vì đã quá thời gian hợp đồng nên đành bán tống bán tháo đàn bò. Tính toán thấy không bù nổi vốn để trả cho chủ bò, chúng tôi đánh xe vào làng Yên Sở mua một xe rau quả về, mong bù lỗ chuyến buôn có một không hai này. Tôi áp tải xe rau quả về, không quên nhờ cậu em ở Hà Nội theo địa chỉ báo cho ông Đấng biết việc chở kèo nhà bị lỡ.

    Chiếc xe Zin 130 chạy thục mạng trong đêm mưa, về đến thị trấn Nghèn thì bị công an và kiểm soát quân sự ách lại. Mọi sự vỡ lở. Giấy tờ của ông Đấng trong xà cột không những không cứu được chúng tôi, thậm chí nó lột trần sự giả dối của chúng tôi. Thấy tình hình có vẻ nghiêm trọng, tôi đành nói sự thật với hai cán bộ kiểm soát quân sự về chủ nhân của chiếc xà cột và lý do tôi phải mang chiếc cặp đó theo mình, đến việc phải nói dối là quân nhân. Chiếc xe tải chở đầy rau quả lập tức bị đưa sang nhập cho cửa hàng thực phẩm bên cạnh. Rồi hai chúng tôi cũng được thả ra. Riêng chiếc xà cột và bản thân ông Đấng thì bị liên lụy. Sau này, từ một người bạn cũng làm việc ở Quân khu, tôi mới biết là Huyện đội điện lên Tỉnh đội, Tỉnh đội điện ra Bộ Quốc phòng, Bộ điện về Quân đoàn 3 và Lữ tăng, Tổng Cục chính trị điện sang Bộ tổng tham mưu và Đại tướng Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái chỉ thị cho các đơn vị liên quan sục tìm ông Bùi Quang Đấng...

    Đợi chúng tôi ở nhà người bạn có vì kèo sắt, ông Đấng vô cùng sốt ruột. Ngày sau ông đạp xe đi tìm. Không gặp, ông đành lên nhảy tàu về quê. Mấy ngày sau tôi và Đê mếu máo tay không về báo với ông hậu quả tai hại của những việc chúng tôi làm. Từ kinh ngạc đến giận dữ, ông lặng người trước sự việc trầm trọng này. Ông vội đạp xe ra huyện đội Can Lộc, có tôi đi cùng.

    Dù là vô tình, ông vẫn bị đơn vị khiển trách và phải làm bản kiểm điểm xin chịu kỷ luật trước đơn vị. Sau này, Quân pháp Quân khu 4 đã cử một đại úy đeo phù hiệu thanh kiếm và lá chắn về thẩm tra. Cả bốn đứa chúng tôi đều làm bản cam kết xin nhận lỗi về mình. Chính quyền địa phương cũng hết sức can thiệp, phần nữa, có lẽ viên đại úy quân pháp trực tiếp chứng kiến hoàn cảnh gia đình ông và việc làm liều mạng vì tình đồng đội của bốn đứa chúng tôi nên việc này cũng được dẹp bỏ. Ông Đấng bán số gạch định để xây nhà góp vào bù trả số tiền mua bò, mặc cho chúng tôi phản đối. Rồi ông xin nghỉ hưu, mặc dù nghe đâu ông đã có quyết định lên chức Lữ đoàn trưởng. Lúc đó ông mới ngoài bốn mươi tuổi.

    Mười lăm năm trở lại quê nhà, ông dành phần lớn thì giờ chăm sóc vợ con. Gia đình ông đã có ngôi nhà khang trang, mảnh vườn xanh um đầy cây trái. Việc làng việc xóm, việc họ việc hàng ông là người xốc vác nhiệt tâm. Ông như cỗ xe tăng, lầm lũi đến đâu là ở đó mọi công việc được giải tỏa, dứt khoát. Cái dáng to bè, chắc nịch của người cựu binh xe tăng như chỗ dựa cho mọi  người trong làng xóm.

    Còn bây giờ, ông ngồi đó, tấm lưng đã hơi gù xuống, khuôn mặt đầy nếp phong trần nhưng thật thanh thản, hiền hậu. Với chúng tôi bao giờ ông cũng là một vị anh hùng.

Trại viết văn Quân đội, Đồ Sơn, 10.1998