BẢN MÁN BẢY NHÀ
Truyện ký
Tôi đã câm lặng trước đề nghị đó bởi tôi muốn em phải được Đời và Người đối xử bình đẳng và trân trọng, hoặc tôi đã không đũ dũng cảm để viết về nỗi đau này.
Bây giờ em đã trở về nơi chốn cũ để phát rẫy làm nương, kiếm sống bằng chính bàn tay lao động của mình. Bây giờ em đã có gia đình và được cảm thông, tôi thực hiện lời ủy thác của em đây, Lam ơi!
Thật lạ lùng, một cô gái Mán không biết một chữ bẻ đôi, bị vùi dập trong hoàn cảnh gia đình và xã hội lại có một trí nhớ tuyệt vời, có ngôn ngữ đa dạng, có sự hiểu biết xung quanh - những nơi em đã phải sống - đến thế. Tôi viết mà không viết gì hết, chỉ ghép lại những giọt nước mắt tuôn chảy của cuộc đời em, qua lời kể của em từ buổi tối ấy ở Thanh Khê mà tôi được nghe và ghi nhớ.
Và bạn đọc! Xin lưu ý cho rằng vì nhiều lẽ, các nhân vật trong thiên ký sự này tác giả xin được đổi tên, mong các bạn đừng tìm hiểu đến ngọn nguồn sự thật bởi không bao giờ các bạn tìm được một sự thật đau lòng hơn, thương cảm hơn, xúc động hơn trong trường hợp tôi kể đây.
1. Từ chén rượu “cỏ thiêng”
Nhà hàng Hương Quê ven quốc lộ 1A phía bắc bãi biển Đá Nhảy một chiều mưa nhẹ và se lạnh. Cô gái có khuôn mặt đẹp mà buồn đến bên cạnh bàn hai vị khách vừa gọi cơm: “Hai anh uống gì ạ?”. “Cảm ơn cô, cho nước khoáng Bang nhé”. “Hai anh không dùng bia à?”. “Bọn anh còn phải đi xa, mà lại bằng xe máy”.
Có lẽ hôm nay là ngày chủ nhật nên khách ít, chủ nhân và người nhà mải mê với trận bóng đá của đội U23 Việt Nam bên Thái. Chỉ một mình cô gái đứng chờ phục vụ hai khách hàng duy nhất lúc này. Nhìn khách uể oải với những món thức ăn của biển như không còn tươi lắm, cô bé bạo dạn: “Em uống cùng hai anh được không?”. “Mời cô, cô uống gì?”. “Em uống rượu!”.
Quảng, một trong hai người khách ngạc nhiên: “Thì cô đưa ra đây tôi uống cùng vậy”. Cô gái không vào phía quầy mà tắt qua sân về nhà bên cạnh, một lát khệ nệ ôm sang một chiếc ấm gốm khá bự có vòi dùng để ngâm rượu thuốc. Quảng bảo cô: “Rót hai chén thôi. Bạn anh không uống. Mà rượu gì vậy?”. Giọng cô gái trầm xuống: “Rượu giải buồn của em, ngâm bằng cỏ thiêng đấy anh”. “Cỏ thiêng là cỏ gì? Sao phải uống cỏ thiêng để giải buồn vậy em?”. Không trả lời, đôi mắt của cô buồn trũng xuống rất nhanh. Cô nâng ly rượu màu mật ong sóng sánh chạm cùng khách: “Anh uống đi. Sẽ hết mệt mõi ngay. Em chỉ còn chừng này. Hết là không bao giờ còn nữa”.
Hình như có điều gì trắc ẩn và có vẻ cô gái rất duyên này muốn trút bầu tâm sự, Quảng chiêu một ngụm rượu nhỏ và không nuốt vội. Vì rượu mạnh pha huơng cỏ thơm thơm, ngòn ngọt thấm vaò đầu luỡi. Anh gật gật đầu: “Tuyệt, xin mời!”. Cô gái tươi ngay nét mặt, uống cạn ly.
Một tiếng thở dài cố nén vẫn bật ra. Đôi má bầu bầu với hai hạt đồng tiền không cười vẫn cứ hiện diện từ từ hồng lên sau men rượu. Cô nói rất khẽ, chỉ đủ cho mình Quảng nghe: “Đây là rượu từ quê em đưa vào. Còn thứ cỏ này tên là gì em không được biết. Bố em ngày trước có làm nghề thuốc và ông biết nơi lấy cỏ thiêng về ngâm sắc để cứu đời và cứu đói cho nhà. Bố em không còn. Nắm cỏ thiêng duy nhất còn lại mẹ em gửi cho em đấy”.
Tên em là Lam, quê ở Tuyên Quang. Lam vào phục vụ nhà hàng đã gần cả năm nay, thi thoảng lại có về thăm mẹ và gia đình ít tháng…
Cuộc gặp gỡ đầu tiên của Quảng và cô gái phục vụ nhà hàng chỉ dừng lại ở đó. Chiều đã buông khá đậm. Từ bãi dương ven biển, từng đám sương lam giăng mờ cả một vệt dài như vệt khói, xanh nhè nhẹ mà se lòng. Hai vị khách phải trẩy chuyến ra, trước mặt họ là đèo Ngang quanh co và vắng vẻ. Dù sao thì cũng không nên chủ quan. Quảng bắt tay Lam mà không dám nhìn lâu vào đôi mắt vợi buồn của cô bé.
Vài tháng sau, nhân một chuyến đi cùng đoàn cán bộ Phòng kinh tế Quân khu 4 vào thăm một đơn vị bộ đội đang “dắm” sát biên giới cùng đồng bào Vân Kiều, Quảng lại có dịp ghé qua nhà hàng mà bé Lam phục vụ. Cô bé mừng như gặp người thân, đôi mắt tròn đen ánh lên một niềm vui khó tả. Chỉ dừng chốc lát cho lái xe hút tàn điếu thuốc, chiếc xe quân sự lại lên đường, cô bé cầm chặt tay Quảng nói như van vỉ: “Em có chuyện muốn nói cùng anh. Hôm nào anh phải dừng lại lâu lâu một chút”. Mấy anh bộ đội không muốn làm cô bé thất vọng, vì vậy sau chuyến công tác, trên đường ra họ quay lại dừng ăn cơm ở quán Hương Quê và nghỉ lại Thanh Khê. Tính tò mò của nghề báo và sự nhạy cảm của nhà thơ đã giúp Quảng tìm ra căn nguyên nỗi buồn vời vợi trong đôi mắt ấy. Lam đã trút bầu tâm sự cho anh bằng cả sự chân tình, bằng lòng tin vô hình mà cô cảm nhận được từ linh cảm.
2. ; Bản Mán “bảy nhà”
Bản Mán của Lam nằm trong một lũng núi phía Đông Bắc dãy Tam Đảo thuộc tỉnh Tuyên Quang. Bản chỉ có bảy túp nhà sàn nhỏ nằm cách xa nhau vài ba trăm mét bên một con suối lớn. Cư dân trong bản có vài chục người thì nhà Lam đã chiếm mất 8 người. Mẹ cô là con gái của một người Dao họ Triệu nguyên là cựu Cứu Quốc quân, sau này cụ là chiến sĩ của đơn vị Giải phóng quân đầu tiên tại Tân Trào. Cụ Triệu được tặng Bằng Tổ quốc ghi công từ năm 1963 khi cụ đang sống. Mẹ Lam là con gái duy nhất của Triệu lão quân. Bố Lam người Tày ở Lạng Sơn, đi bộ đội rồi lấy mẹ mà ở lại vùng hẻm núi này sinh sống. Ông bị thương, bị bệnh thần kinh, mất hết giấy tờ nên không có chế độ gì, nhiều khi nổi cơn bức bách ông hành xử không bình thường với mẹ con Lam và dân bản. Từ lúc lên chín lên mười, Lam phải lao động cùng bố mẹ và các anh, những công việc của dân làng ở đây vô cùng nặng nhọc: đốn gỗ, chặt củi, làm ruộng nước, phá rẫy cao, săn bắn…Những buổi nông nhàn họ lại đào, lại khoét những hầm mót quặng thiếc vừa vất vả vừa nguy hiểm, độc hại. Hầm phải đào sâu xuyên núi đến hàng trăm mét. Nếu may mắn gặp được vỉa quặng thì thu nhập tàm tạm. Nhiều người bị sập hầm, bị cảm lạnh, bị kiệt sức vì đào bới trong thăm thẳm đất đen mà không có bữa cơm no. Hai anh lớn của Lam bị chết do tai nạn khi bới thiếc và đẵn gỗ. Mấy anh nữa lại dính vào nghiện ngập, gia đình lay lắt sống giữa heo hút sơn lâm.
Vất vả thiếu thốn là vậy, Lam vẫn lớn lên khỏe mạnh, xinh đẹp. Qua mối quan hệ của bố mẹ, Lam thường ra chơi với chị Hà ở Đại Từ (Thái Nguyên), cách nhà đến hơn chục cây số. Cô gái không biết một chữ bẻ đôi, hồn nhiên phơi phới xuân thì ấy không biết mình đang rơi vào cạm bẫy cuộc đời. Một ngày cuối thu năm 1999, bằng thủ đoạn cho bạn uống nước ngọt có chế sẵn thuốc mê, Hà đưa Lam lên ô tô chở qua biên giới.
3. Đời mưa gió
Suốt một quảng đường dài không biết thời gian là bao lâu bị dày vò trong cơn khát và mê loạn. Lam chỉ nhớ thi thoảng cô được người ta cho uống nước, rất ít rồi lại mê đi. Khi tỉnh táo trở lại cô thấy mình ở trong một căn nhà nhỏ, trên một ngọn đồi xa vắng nhà cửa và dân cư. Ngơ ngác và sợ hãi nhưng cửa nhà khóa ngoài không thể ra được. Lam ngồi đợi có ai đó đến hỏi xem sao.
Rồi một gã đàn ông đến mở khóa. Hắn ngắm nghía Lam như một con mèo nhìn chuột. Hắn đưa cơm bảo Lam ăn. Cô hỏi dồn hắn đây là đâu? Ông là ai? Gã đàn ông xa lạ chỉ lắc đầu, bập bẹ vài câu tiếng Kinh lí nhí. Thấy Lam không chịu ăn, vẻ căng thẳng, hắn cầm tay cô kéo lại phía chiếc giường đơn. Cô gái Mán chợt hiểu ra hắn muốn gì, cô la lên kêu cứu, xô dẩy hắn và giật lùi về phía góc phòng. Sau một lúc vờn chuột và thuyết phục, gã chồm về phía Lam với quyết tâm nuốt chửng con mồi. Cô gái trẻ trong cơn tuyệt vọng đã kịp bẻ chân chiếc ghế đẩu duy nhất trong căn nhà phang vào trán thằng đàn ông thú vật. Máu me đầm mặt nhưng hình như cơn cuồng thú trong người đã dâng lên ngút trời, hắn chồm lên được người cô, đè cô xuống, rồi đầu gối gã chèn vào cổ họng Lam, một tay ghì tóc cô sát đất, tay còn lại cấu xé áo quần Lam. Khi cô nghẹt thở đuối dần thì hắn trói được hai tay cô vào chân giường bằng những mẩu vải xé ấy. Lam trở thành miếng mồi cho con hổ dữ trong cơn đau đớn tận cùng của thể xác và nỗi nhục nhã, uất hận. Sau đó vài ngày Lam bị bán về một nhà hàng trá hình, thực chất là một nhà Thổ ở Thẩm Cát, cách Đông Hưng (Trung Quốc) vài chục cây số. Mụ chủ tên là Ngoãn quê ở Hải Phòng có chồng tên Mộc. Trước Lam đã có hai cô gái Việt bị bán về đây: Hậu quê ở Hải Dương (SN 1980) và Hiền quê Bắc Ninh. Mụ Ngoãn đặt tên cho Hậu là Mai, Hiền là Hương. Họ phải làm công việc tồi tệ nhất: tiếp khách làng chơi.
Biết mình không còn hi vọng gì trốn khỏi địa ngục mụ Ngoãn và vượt được biên giới trở về, một quyết định được Lam vạch ra rất nhanh: thà chết chứ không chịu cúi đầu làm ô nhục cho mụ Ngoãn. Vì vậy mặc dù mụ ve vãn nhiều khách làng chơi để bán món hàng mới sang, nhưng chưa một khách nào khuất phục được cô gái Mán quyết tử ấy. Dọa dẫm rồi ngọt lạt, cuối cùng lão Mộc đành bắt Lam ra phụ hồ, quét vôi cùng đám thợ đang sửa lại nhà cho lão. Lam quần quật lao động trong sự quản chế ngặt nghèo, trong thù hận và chờ đợi những âm mưu quỷ độc của bọn Tú Bà. Trong một lần đi gánh cát trộn vữa ngoài bờ rào. Lam nhặt được một gói tiền “tệ” ai đó đánh rơi. Không hiểu là bao nhiêu nhưng khi Lam đưa về trao cho mụ Ngoãn thì cả vợ chồng mụ hớn hở ra mặt. Cũng từ đó sự hà khắc của họ với Lam bớt đi rất nhiều.
Quán mụ Ngoãn có nhiều người Việt Nam sang buôn bán đến ăn nhậu chơi bời. Một lần Lam phải trèo lên thang cao để quét ve tường, trời nắng như đổ lửa vậy mà một gã đàn ông đi qua còn ghẹo: “Hình như em đẹp lắm, quay mặt sang anh xem?”. Lam không trả lời, tuy nhiên cái giọng nằng nặng đó gợi cho cô tình quê, tình người và tình cảm của mình. Nước mắt tủi hờn lẫn mồ hôi từ mặt cô tuôn chảy. Gã đàn ông quái qủy dưới kia chui xuống cầu thang để ngó mặt cô bất ngờ hứng trọn mấy giọt nước mắt mặn chát ấy. Anh ta giật mình không thêm một lời nào nữa mà quay vào gọi mụ Ngoãn để hỏi ngọn ngành vì sao cô gái kia lại khóc. Con mắt mụ tú bà lóe lên tinh quái và mụ gọi Lam vào tiếp chuyện với vị khách đất miền Trung. Trước sự quan tâm và cách cư xử của Quân - người đàn ông đất Quảng Bình ấy – Lam không ngần ngại kể lại hoàn cảnh của mình và nhờ anh giúp đỡ để thoát về nhà. Chuyện của Lam đã làm Quân hết sức xúc động.
Quân sang Trung Quốc buôn bán quần áo, chủ yếu là đồ da, hàng tháng anh theo tàu một chuyến. Đã mấy năm nay anh thường ghé lại quán mụ Ngoãn để liên lạc với bạn hàng, cùng là tìm chỗ ăn nhậu và giải trí. Người đàn ông miền Trung này thật sự thương cảm với hoàn cảnh của Lam và 2 cô gái Việt ở đây, anh hứa sẽ tìm mọi cách để giúp đỡ Lam thoát khỏi cái hang hùm này, tuy nhiên Lam biết anh cũng chưa có cách gì. Anh hứa để an ủi vậy thôi. Mụ Ngoãn và lão Mộc chẳng bao giờ chịu rời những con mồi đang đem về nhiều lợi nhuận cho chúng; và nữa chúng cũng không muốn bị lột tẩy cái nghề bất lương này. Hôm Quân về nước, anh cho Lam một trăm ngàn đồng tiền Việt, đọc cho cô số điện thoại di động của mình. Quân cũng bày cho Lam đường về Việt Nam phải đi hướng nào, khi cơ hội đến. Quân lo Lam liều mình do đó dặn dò mãi Lam rằng nhất định phải đợi anh sang. Tiền thì Lam giấu kỹ, còn số điện thoại thì cô nhập tâm. Trí nhớ của Lam rất tốt, gần như cô không quên điều gì.
4. Sổng chuồng
Hơn một năm rơi vào mụ Ngoãn, đêm 30 tháng giêng năm 2001, trời mưa như trút và rét căm căm, mụ Ngoãn để quên chìa khóa cửa vườn sau. Thời cơ “vượt ngục” của Lam đã đến. Lam gọi Hiền và Hậu ra một góc bếp, vạch kế hoạch “ sổng chuồng”. Hiền lo sợ ngó quanh ngó quất, nhìn ra ngoài trời đen kịt, mưa gió rào rào rồi bật khóc nức nở. Hậu hăng hái đồng tình với Lam. Thấy hai người bạn quyết tâm, Hiền nín khóc chạy theo ra cổng.
Ổ khóa ngâm mưa lâu ngày bị rỉ roét, Lam và Hậu loay hoay mất cả tiếng đồng hồ. Nỗi sợ hãi và giá lạnh làm tay các cô lóng ngóng. Phải lấy gạch vụn gõ vừa xoay chìa mãi mới mở được tấm cửa nách. Cả 3 cô gái chạy thục mạng xuyên mưa gió khi ra khỏi nhà mụ Ngoãn. Qua một bãi than rộng, Lam hướng các bạn chạy về phía ánh đèn ô tô đang chếch ngược lên trời. Phía đó chắc là đường lớn về biên giới. Đột nhiên bãi đất than lún sâu dần, các cô gái tội nghiệp bị bùn ngập tới đùi, tới bụng. Biết rơi vào vũng lầy, với kinh nghiệm của những ngày đào mỏ bị mưa lũ ngập hầm, bị bùn đất lũ suối níu kéo, Lam nhoài cả người nằm rạp lên mặt bùn sền sệt để khỏi lún tiếp rồi kêu Hiền và Hậu nằm sấp xuống, với tay nắm lấy nhau cùng kéo rút chân lên. Cứ vậy cả bọn trườn, lăn, bò, bơi bất tử qua cánh đồng sình lầy đó để lên mặt đường nhựa. Mệt nhọc như muốn đứt hơi, Lam dìu Hiền chạy xệu xạo, chạy bán chết về ngã tư thị xã Giang Bình.
Một chiếc ô tô xồ đến, đó là xe khách chạy đêm. Lam lao ra chặn lấy đầu xe ở cự ly quá gần và bất ngờ khiến lái xe giật mình phanh kít. Giận dữ kẻ điên khùng muốn tự sát, người lái xe chửi ầm ỉ, Lam gào lên bằng trọ trẹ tiếng Mạc mà cô học được mấy ngày qua: “ A cố sế a mu ùi Đông Hưng” (Xe anh có ra cửa khẩu Đông Hưng cho bạn em về với). Biết là mấy cô gái Việt bị lừa bán sang đây, người lái xe đồng ý cho cả mấy đứa lên. Tờ mờ sáng thì họ đến cửa khẩu. Cửa khẩu vắng tanh vắng ngắt. Lam trèo qua cổng sắt rất cao sang bên kia hàng rào. Một người đàn ông đang ngồi nhìn ra phía biển. Trước mặt anh ta, sát bờ có mấy chiếc thuyền. Lam khóc xin anh ta cho lên thuyền về Việt Nam. Hiền và Hậu cũng trèo sang, đứng chắp hai tay lạy lia lịa, miệng mếu máo không nói ra lời. Nhìn ba cô gái trẻ thảm hại trong te tua bùn đất từ quần áo đến tóc tai, người đàn ông chỉ mấy lùm cây sát biển, nơi có những bãi đá lổn nhổn bảo họ trốn vào trong đó đợi chủ thuyền đến. Anh ta chỉ là người gác thuê. Mấy cô gái nghe lời chui vào nằm im trong một lùm cây. Trời sáng hẳn thì thấy một tốp người gậy gọc ồn ào đến kiếm tìm phía bên kia hàng rào cửa khẩu. Đoán là gia nhân mụ Ngoãn đuổi theo, cả ba cô nằm chết lặng trong bụi cây, lòng vô cùng lo sợ.
Bọn người Tàu đi khỏi cửa khẩu khá nhanh. Có lẽ chúng không ngờ các cô gái có thể vượt được ngần ấy quảng đường trong chừng ấy thời gian để ra được đến đây nên đi tìm phía khác. Lam chui ra khỏi chổ nấp và được người gác thuyền đưa đến gặp một người Việt tên là Tuấn. Tuấn đòi ba trăm ngàn tiền Việt. Cả ba đứa khóc lóc van xin, kể lại toàn cảnh của mình. Chủ thuyền Tuấn thương tình cho lên thuyền và khẩn trương vượt biển mà không đòi hỏi gì thêm. Về đến đất Việt Nam, cả mấy chị em xuống biển tắm gội cho sạch bùn đất rồi tìm vào bưu điện. Hậu gọi cho người quen ở Móng Cái. Lam gọi cho Quân. Quân mừng lắm dặn ở lại đấy chờ anh sẽ đến. Một trăm ngàn đồng Quân cho hôm ở nhà mụ Ngoãn không đủ trả tiền điện thoại cho mấy đứa gọi. Họ phải thế thân tại bưu điện đến khi người quen của Hậu tới cho thêm hai trăm ngàn mấy đứa mới được rời quầy. Đợi đến chiều thì Quân tới. Anh đang có việc ở gần đây. Cả ba đứa được Quân thuê phòng trọ, mua áo quần, tắm giặt, ăn uống. Hôm sau Hiền và Hậu tìm đường về quê. Riêng Lam, phần sợ bố mẹ hiểu lầm vì chuyện mất tích của mình, phần quyến luyến không muốn xa Quân, phần nữa cô quá gầy gò tiều tụy và cũng cần ít tiền về nên cô ở lại làm thuê taị một quán ăn của ông giáo về hưu ở Móng Cái. Hai tháng sau, khi dành dụm được một triệu đồng, Lam trở về Tuyên Quang.
Cái xóm Mán heo hút ấy như sôi lên khi Lam xuất hiện. Ông bố thì giận dữ, bán tính bán nghi. Mẹ Lam cứ tưởng cô con gái của mình chui dưới đất lên. Các anh của Lam sau khi nghe chuyện em gái bị lừa bán sang Trung Quốc thì máu nóng bóc lên mây xanh. Họ cùng cô em gái tìm đến nhà Hà để hỏi tội nhưng thị đã cao chạy xa bay. Sau này, từ một nơi không rõ địa chỉ, thị Hà có viết cho mẹ Lam một lá thư nhận lỗi và xin được tha thứ. Dù vậy Lam vẫn nuôi một nỗi hận ghê gớm với người bạn phản phúc kia. Cô chưa thể lường được nếu gặp lại Hà cô sẽ trút giận như thế nào nữa, chỉ biết cho đến lúc kể chuyện với Quảng, giọng nói, ánh mắt của cô đầy xót xa căm hận.
5. Lấy chồng
Đến mót quặng thiếc cạnh xóm Mán của Lam có dân tứ chiếng. Hòa, một thanh niên quê Vĩnh Phúc - mạn phía Tây Tam Đảo cũng trong số ấy. Thấy Lam xinh xắn khỏe mạnh, anh ta rất ưng, thường đến nhà chơi. Lam không có cảm tình với anh chàng sâu rượu này. Hòa có vẻ gì đó không bình thường, tướng ác nhân và nghiện ngập. Để chiếm được Lam, hắn ta thường quà cáp cho ông Cương – bố Lam, khi thì chai rượu, món đồ nhậu hoặc những thứ hắn kiếm được mỗi lần về quê lên hoặc mỗi lần ra Đại Từ. Ông Cương phần vì nể Hòa, phần vì lo Lam ở đây ế chồng nên quyết ép con gái lấy hắn. Sau một thời gian chống chế, dù được mẹ hỗ trợ nhưng vẫn không cự nỗi sự độc đoán, gia trưởng của bố, đám cưới của Hòa và Lam cũng được tổ chức có lễ hỏi, lễ cưới rất sơ sài tẻ nhạt. Bố mẹ và các anh nới thêm chái cạnh đầu hồi, nơi vẫn đặt cối giã gạo phía ngoài vách nhà cho vợ chồng Lam ở tạm.
Đêm đầu tiên chung đụng, Lam kinh hãi vì không hiểu sao cô lại bị đau đớn đến vậy. Dù là thân gái đã từng bị hãm hiếp, đã từng… nhưng “của quý” của Hòa nó xù ra gớm guốc như đầu rắn hổ mang. Cô sợ hãi bỏ trốn vào giường mẹ mặc cho Hòa nhiều lần đòi hỏi, ép buộc; mặc cho mọi người động viên khuyên bảo. Thì ra Hòa là một kẻ đã từng can án buôn ma túy, bị bắt đi tù. Trong thời gian ở tù y đã học được trò quái gở là khâu vào đầu dương vật năm viên bi sắt để đã đời phá phách một khi được về với tự do. Biết chuyện, Lam kiên quyết bắt Hòa phải đi tháo bỏ những viên bi. Hòa không chịu. Chiến tranh giữa họ xảy ra. Lam xin bố mẹ cho li dị. Hòa thách nếu trả được lễ hỏi, lễ cuới và các sắm vật trong thời gian qua. Bí thế, Lam bỏ nhà tìm vào Quảng Bình gặp Quân, người mà cô coi như ân nhân cứu mạng.
Miền quê mà Quân sinh sống gần vùng Đá Nhảy, một bãi biển đẹp mộng mơ trên quốc lộ 1A, nơi có những quả đồi chồm ra biển biếc. Từ lâu ở đây đã là khu du lịch làm xiêu lòng du khách vào ra bởi rừng dương xanh, bởi những bãi đá lúc túc trên đầu đám sóng bạc, bởi những món ăn của biển cả tươi sốt, những khu nhà nghỉ dù còn đơn giản tiện nghi nhưng nhiều thú giải trí mà ít nơi có đuợc. Quân có một gia đình ấm cúng, đời sống cũng kha khá bởi những chuyến vuợt biển bán buôn. Vợ anh biết hoàn cảnh của Lam nên rất thương cô, bảo cô ở lại cùng anh chị rồi giục Quân ra Thanh Khê tìm việc làm cho Lam. Với dung nhan dễ cảm, tính tình vui vẻ và hiền dịu, Lam được các chủ quán ở đây quý mến. Khi thì cô giúp nhà hàng tiếp khách ăn nhậu, khi cô cùng bạn bè đi phục vụ khách hát Karaoke. Để khỏi ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình Quân, cô xin phép anh chị ra ở luôn ngoài quán,. Mấy tháng sau có một ít tiền đủ trả món nợ cho ông chồng khốn kiếp, cô lại trở về quê nhà.
Bữa cơm mà Lam tổ chức để chuộc lại tự do từ cuộc hôn nhân bất đắc dĩ được cô chuẩn bị chu đáo. Đây là một bữa cỗ hiếm hoi ở xóm nghèo thưa thớt cư dân này. Những người đại diện cho các gia đình xóm Mán cùng cả nhà Lam đều có mặt. Hòa miễn cưỡng ngồi một góc chiếu, anh ta đã đoán được phần nào ý nghĩa của bữa cơm hôm nay. Khi bữa cơm đã gần tàn, Lam đứng dậy tránh cặp mắt đục ngầu và sắc mặt lầm lầm của ông Cương, một ông bố chưa bao giờ chịu nghe lấy một lời khuyên bảo của vợ con, một ông bố gia trưởng và độc đoán bậc nhất, Lam xin phép mọi người rồi quay sang Hòa: “Anh đã không chịu coi tôi là người thì chúng ta phải chia tay thôi. Hôm nay trước bố mẹ tôi và đông đủ mọi người, tôi xin trả lại anh những gì mà anh đưa đến để cưới hỏi tôi. Chúng ta không có bất kì một ràng buộc gì nữa cả, nếu anh không chịu buông tha tôi thì con dao sắc này sẽ đưa một trong hai chúng ta đến cái chết”. Lam đi về phía chân giường của mẹ, một tay cầm gói đồ “lễ” trả cho Hòa, một tay cầm con dao phát rừng sắc lẹm. Mọi người lặng câm, cả Hòa, cả ông Cương. Chỉ có những giọt nước mắt chảy tràn trên khuôn mặt khắc khổ của bà mẹ.
Thoát được sự đeo bám của gã mót thiếc, được mẹ và các anh giúp sức, Lam phát một khoảng rừng phía trên nhà bố mẹ để cất một cái lán nhỏ. Cô sống một mình trên lán, quyết tâm khai phá một mảnh rẫy để trỉa trồng. Cuộc sống buồn tẻ, thiếu thốn không làm nhụt được ý chí tự lập để tái tạo cuộc sống của cô
6. Đêm kinh hoàng trong lán nứa
Sau bữa tiệc bỏ chồng của Lam, ông Cương càng thêm lầm lì, khó chịu. Là một người không được may mắn trong đường đời, sức khỏe và trí tuệ không được bình thường, ông như một kẻ bất đắc chí phải sống nơi khỉ ho cò gáy này với cuộc sống tối tăm thiếu thốn. Đôi ba lần ông bỏ việc mót quặng làm thuốc để về thăm quê ở Lạng Sơn, thấy miền quê xưa giờ khác quá, đổi mới nhanh, ai cũng khá giả hơn mà lòng ông buồn khổ. Thân trai xa quê đi hoạt động chẳng nên cơm nên cháo gì. Không “đỏ ngực” đã đành, sống cũng chẳng hơn gì những anh “xanh cỏ”. Cảnh gia đình túng bấn, chòm xóm hiu hắt quanh năm, lũ con lớn lên công ăn việc làm chẳng có, hết vào rừng làm “tặc” lại chui nhủi hầm sâu mót quặng, cực khổ và thiếu đói quanh năm. Rồi đứa chết rủi ro, đứa sa nghiện ngập. Đến cái con Lam hiền tươi như đóa hoa rừng ấy cũng hư hỏng mất rồi, bỏ đi biệt xứ hàng tháng hàng năm, giờ lại về ngang nhiên bỏ chồng, cãi bố. Ông Cương thèm chén rượu nhạt quá. Từ hôm thằng Hòa bị vợ bỏ đến nay chưa một lần hắn trở lại tìm ông. Vắng nó, chẳng ai cho ông quà cáp nữa. Mà con Lam dám cãi ông, suy cho cùng cũng tại con mẹ nó. Thứ đàn bà động một tí là nước mắt lưng tròng, vậy mà cũng ánh mắt ấy đã khuyến khích đứa con gái của ông dám lộn sòng từ trong nhà ra ngoài ngõ. Ông tức mình, tức cuộc sống âm u tù hãm, tức những đứa con không tự vượt qua được cảnh ngộ, tức bà vợ người Dao…
Đêm núi rừng lạnh lẽo. Ông Cuơng đi nằm mà không thể nào ngủ được. Bà Mi ngồi bên bếp lửa cời cời những que củi vụn chưa cháy trong đám than. Những que củi dăm ấy được sấy nóng cong khô bắt lửa loang loáng. Bóng bà Mi chập chờn trên vách nứa làm ông Cương liên tưởng đó là bóng ma. Lâu lắm rồi hai vợ chồng không trò chuyện cùng nhau. Bà Mi phần sợ chồng, phần bận bịu và ốm nheo ốm nhách, lại lo cho đứa này đứa kia nên lúc đồng sâu rẫy cạn, lúc củ sắn mớ rau, bà vẫn lặng câm như người trầm cảm. Căn nhà vốn cô độc, đêm nay càng buồn thảm , nặng nề hơn.
Tiếng ông Cương rít lên bực bội: “Ngày mai tao giết con Lam! Đồ chó cả”. Bà Mi giật mình, ngoái nhìn chồng, đôi mắt vốn ráo hoảnh bắt ánh lửa đỏ như mắt mèo hoang. Ông Cương càng lộn tiết: “Chứ không à? Tại mày cả đấy.Tao căm ghét chúng mày!”. Đột nhiên ông chồm dạy, lao đến đấm đá như điên vào cái thân gầy ốm yếu của bà Mi. Bà Mi câm lặng chịu đựng như trăm ngàn lần bà đã chịu đựng ông chồng tàn bạo. Song lần này cơn thịnh nộ của chồng bà ghê gớm, dai dẳng hơn. Ông ta như con ác thú, vò xé, đấm đạp, chửi rủa… thậm chí còn vơ cả thanh củi phang vào cánh tay gầy dét của người đàn bà tội nghiệp. Cánh tay trái của bà Mi gãy rời, lủng lẳng. Bà gục xuống bên sàn bếp ngất đi. Khi tỉnh dậy bà thấy mình bị trói hai tay vào trước bụng, hai chân bị buộc bằng chính những mảnh áo mảnh quần của mình và tấm thân gầy yếu tồng ngồng giữa nhà trước tấm ván đặt bàn thờ tiên tổ. Rên lên vì đau, vì lạnh, vì nhục nhã ê chề, bà Mi cựa đạp đôi chân, quằn quại mãi. Cuối cùng những miếng vải buộc chân bà cũng sổ ra, đôi chân tím bầm vì vết trói. Trời sáng dần. Căn nhà vắng ngắt. Lão chồng tàn bạo đã bỏ đi đâu. Bà Mi chòi đạp, trườn lướt tới một cái cột nhà. Bấm các ngón chân vào nền đất đến tứa máu. Bà dịch dần tấm lưng lên tựa theo cái cột ấy để ngồi dậy. Cũng cách ấy bà đã tự đứng lên được và lần mò về phía nhà Lam. Quảng đuờng không xa nhưng sức tàn lực tận, không biết bao lần bà Mi ngã xuống lại cố gắng ngồi, đứng, bò, đi… khi Lam nhận ra mẹ trong tình cảnh sống dở chết dở, cô nhào ra bế mẹ vào trong lán, dùng dao cắt mớ dây trói lùng nhùng rồi hai mẹ con ôm nhau khóc ngất. Cô lấy áo quần cho mẹ mặc, dùng thanh nứa và dây vải ép cánh tay gãy của mẹ để cố định vết gãy. Trưa và chiều đó ông Cương không về nhà. Mấy anh trai của Lam đi vắng cả chỉ duy nhất một người ở cách đó không xa, giữa chiều Lam chạy đi gọi anh lên giúp mình chăm mẹ. Nhìn tình cảnh gia đình tan nát, nước mắt anh rưng rưng, bất lực.
Cho mẹ ăn cháo xong thì trời đã tối. Lam ngồi rửa chén bát ngoài sân. Mẹ và anh trai ngồi bên bếp lửa. Trời đã chuyển cuối xuân nhưng trên rừng đêm vẫn rất lạnh. Cái bếp lửa là trung tâm vũ trụ của người miền núi những đêm dài lạnh giá, âm u. Có tiếng gầm gừ quát tháo của ông Cương từ dưới chân dốc.: “Con mẹ mày đi đâu? Vì sao tao giam tại nhà mà vẫn bỏ trốn?” Lam hoảng hốt chạy vào bảo anh trai: “Bố về rồi. Hình như say lắm. Anh giữ lấy bố nhé”. Ông Cương, một tay cầm con dao, chân xệu xạo bước vào lán: “ Tao sẽ giết mẹ con mày tại đây!.” Lam bỏ mấy cái bát đĩa đang rửa dở chạy vào: “Bố, bố say quá rồi. Con đưa bố về nghỉ.” “Tao phải giết mày! Giết con mẹ mày đã!”. Ông Cương gầm lên điên dại. Sợ bố lại hành hung mẹ, Lam kêu anh trai: Anh Lâm ngăn bố lại đi”. Rồi cô lao vào ôm lấy mẹ. Người anh ôm lấy ông Cương từ phía sau lưng, lôi ông ra khỏi lán. Ông Cương vùng lên, con dao khua túi bụi. Lam bỏ mẹ ngồi bên bếp chạy tới can bố. Một nhát dao của ông Cương bập xuống, lạnh cả cánh tay cô con gái, máu phun ra nên nhà. Lam hét lên: “Mẹ ơi, bố chặt đứt tay con rồi!”. Bà Mi ngồi bất động bên bếp lửa chờ một nhát dao của ông Cương bổ xuống đầu, xuống gáy mình. Bà tin ông ta sẽ làm như vậy nên không có phản ứng gì nữa. Bà căm gan chờ đợi. khi tiếng thét của Lam và những tia máu từ tay con gái tuôn xuống, đột nhiên bà đứng bật dậy. Một tay treo lủng lẳng trước ngực, một tay - cánh tay phải còn nguyên lành của bà vớ lấy thanh củi đang cháy dở, bà phang mạnh vào đầu ông Cương bằng một sức mạnh tuyệt vọng. Sau một tiếng “bốp!” khô lạnh, những vầng than lửa tung tóe bùng lên. Ông Cương gục xuống trong vòng tay của Lâm. Ông gục xuống không bao giờ gượng dậy được nữa. Cú đánh của bà Mi đúng vào gáy ông, quá hiểm.
Mẹ bị công an bắt giữ vì tội “giết người” trong khi cánh tay gãy đôi đang treo ở ngực không một viên thuốc. Lâm và Lam liên đới vụ án. Cánh tay Lam bị chém đứt một phần cơ và gân. Tang bố… tất tật lại dồn lên vai mấy anh em vốn dĩ nghèo khổ. Lam lên khai báo với công an về vụ việc, tự chạy chữa thuốc thang cho mẹ, cho mình. Rồi Lam lại bỏ quê vào Quảng Bình, đến những quán hàng đã quen thuộc với cô trên dãy phố nhỏ bờ nam sông Gianh, lại làm bất cứ việc gì để kiếm tiền để nuôi mẹ.
Đó là lần Lam gặp Quảng và mời anh chén rượu cỏ thiêng ở quán Hương Quê.
7, Những lời khuyên hay lương tri mách bảo
Câu chuyện của Lam trong đêm Đá Nhảy cứ quấn lấy tâm trạng của Quảng. Trên đường ra hôm ấy, Đại tá Đống ở Quân khi 4 được anh kể vắn tắt về chuyện của Lam đã thốt lên: “Cô bé có đôi mắt thật tinh, không chọn ai trút bầu tâm sự mà chọn đúng nhà báo, nhà thơ. Anh phải viết câu chuyện này đấy”. Quảng biết, làm cái nghiệp viết lách mà có được những tư liệu ấy thì còn gì hơn, nhưng viết để làm gì khi trước mắt anh đang có những thân phận xót xa cần được giúp đỡ. Lam gửi gắm ở anh điều gì? Không làm được như vợ chồng Quân, như người lái xe khách đêm bên Trung Quốc, như chủ thuyền Tuấn ở Quảng Ninh thì anh cũng phải làm gì đó để giúp cô bé thoát khỏi cảnh đời đau khổ. Lam đã coi Quảng là người thân từ lúc nào. Một vài lần có gọi điện hỏi thăm và báo cho anh biết tình hình của mình và hỏi nhiều điều liên quan của mẹ đến pháp luật. Cô còn gửi qua bưu điện tấm “Bằng Tổ quốc ghi công” mà nhà nước tặng cho ông ngoại để nhờ phục hồi phóng to về treo trong nhà. Đó là kỷ vật, là tấm lý lịch duy nhất của gia đình cô. Quảng ngầm hiểu ý Lam, chính tấm bằng ấy sẽ giúp cho mẹ Lam phần nào được giảm nhẹ tội trạng của mình một khi các cơ quan pháp luật xét xử, vì vậy anh đã nhanh chóng chụp lại, photosop rồi phóng thành 3 ảnh to như tấm bằng khen gửi vào cho cô (hồi ấy – những năm 1963, “Bằng Tổ quốc ghi công” chỉ to bằng hai bàn tay người bình thường). Quảng cũng thường dặn dò cô cố gắng thu xếp về quê để thăm và động viên mẹ, thanh minh cho mẹ vì sự quá tay bất đắc dĩ ấy. Và một điều anh không bao giờ quên là nhắc Lam sớm trở về quê nhà, tìm lấy một công việc để kiếm sống, tránh xa cuộc sống không lành mạnh và không có tương lai ấy. Anh phân tích cho Lam, rằng em đã thoát khỏi sự hãm hại của thị Hà, thoát khỏi nanh vuốt mụ Ngoãn để tìm về với tự do và cuộc sống đạm bạc mà trong sạch chứ không phải lại để dấn thân vào con đường ấy. Những lúc như vậy Lam thường nghẹn giọng, lặng đi trong điện thoại nhưng rồi cô vẫn hứa với anh rằng nhất định một ngày rất gần cô sẽ trở về quê. Chuẩn bị đón Tết năm đó, Lam nhắn tin cho anh từ bưu điện rằng cô đã về Tuyên Quang ăn tết, mẹ cô đã được xử án treo 2 năm và sẽ rất lâu cô mới vào lại miền Trung.
Bẵng đi đến 8 tháng trời Quảng không có tin tức gì của Lam. Một vài lần công tác qua Thanh Khê anh vẫn ghé vào hỏi thăm tin tức của cô. Vừa mong gặp Lam, cũng lại lo Lam vẫn loanh quanh đâu đó mà không dám gặp anh nhưng bà chủ quán Hương Quê quả quyết với anh rằng, Lam từ khi về quê ăn Tết đã không vào làm nữa. Bà ta còn bảo là có lần Lam điện thoại nhờ bà lấy cho ít nợ chỗ bạn bè vì cô đang bận làm mùa. Quảng thấy thương cô bé quá. Em đã trở về như lời hứa của em thật rồi. Và anh lại ân hận vì mình chưa giúp được gì cho cô bé tội nghiệp.
Một ngày tháng 9 năm 2003, theo lời mời của một tờ báo ở Hà Nội, Quảng rời miền Trung ra đơn vị mới. Buồn vui lẫn lộn trong lòng anh. Quá nửa đời, bao lần phiêu dạt, cuộc sống ngổn ngang bề bộn của gia đình, của sự nghiệp đang níu kéo anh. Quảng bật cười khi chợt nảy ra mấy câu tự bạch chế giễu mình: “Mòn mỏi đón đợi điều may/ Chín mươi chín ngày chưa tới/ Thắp hương xua đi cái rủi/ Xế tà cái rủi chữa lăn/ Bên đông giành vài miếng ăn/ Phía tay giật dăm tấm mặc/ Lớn bé trẻ già chia khắp/ Lưng vốn lại về số “mo”/ Văn chương chưa kịp nửa bồ/ Nợ nần chật ba chái bếp/ May mà còn chai rượu nếp/ Cho đời sủi bọt lăn tăn”. Chính mày cũng là kẻ đáng thương đó, Quảng ơi! Đang đắm chìm trong suy nghĩ về ngày qua, về những ngày sắp tới, chợt có điện thoại của ai. Tiếng Lam trong trẻo reo lên: “Anh Quảng còn nhớ em nữa không?” “Lam ở đâu vậy? Anh đang ra Hà Nội.” “Dạ, em ở Đại Từ. Em ra mua giống cây và gọi hỏi thăm anh. Lâu quá rồi mà”. “Anh chuyển công tác ra ngoài này rồi”. “ Vậy ư? Em đã phát được hai héc ta rẫy rồi. Giờ em đi tìm giống để gieo trồng anh ạ. Thế em xuống luôn Hà Nội, vừa mua mấy thứ, vừa gặp anh nhé”.
Chiều đó Lam xuống thật, cùng cô em gái khoảng 16 tuổi tên Dung. Lam hồn nhiên chìa hai bàn tay nhỏ nhắn, đen đúa và chai sần từng vạt cho anh xem và cười rất tươi: “Em đã nghe lời anh đây này. Mọi hôm nó còn phồng rộp nữa cơ. Giờ thì em lại quen tay dao tay rìu rồi”. Quảng rưng rưng cầm lấy bàn tay nhỏ bé mà cứng cáp ấy, bàn tay ngày nào còn mềm ấm, mong manh. Tranh thủ còn buổi chợ, Quảng đưa hai chị em Lam vào Đồng Xuân, anh đưa cho cô một ít tiền để mua các thứ cần thiết. Anh tìm mua tặng cô cái đài Radio hai pin đại, một cái đèn pin và chục cặp pin để cô tiện dùng trong cảnh heo hút rừng xanh; gửi tặng mẹ Lam mấy lọ dầu gió, dầu nhị thiên đường, thuốc cảm cúm các loại. Lam hớn hở như trẻ con, lại như một bà già khi tẩn mẩn khoe nào hạt giống vừng, hạt bầu, hạt bí, lại cả mấy củ hoa lay ơn nữa. Lam bảo mùa này trên đó lạnh, giống lay ơn Đà Lạt có thể trổ hoa. Quảng nhìn cái ví đã kẹp lép của mình mà thấy bất lực. Giá như anh có thể giúp cho cô bé được nhiều hơn.
8. Đoạn kết
Lại một chuyến công tác dọc miền Trung. Chiếc xe “chất lượng cao” mang tên Tú Tạc xuyên mưa chở Quảng từ Đà Nẵng ra Bắc. Những cơn lũ quét ở Quảng Bình, Hà Tĩnh đang hối giục anh. Bất ngờ Quảng nhận được điện của Lam, đúng là tiếng Lam mà sao mã gọi đến lại là 052 – số từ Quảng Bình? Một thoáng ngờ vực rất nhanh vụt đến: chẳng lẽ Lam lại…
Đúng là Lam đang ở nhà hàng Hương Quê thật. Quảng quyết định xuống xe ở đó xem sự thể ra sao. Mặc Lam mừng ríu rít khi gặp anh, Quảng không hề vồ vập, thậm chí có vẻ lạnh lùng. Lam mập lên, ngăm đen và khỏe mạnh. Vẻ duyên dáng thôn nữ với đôi lúm đồng tiền, cái răng khểnh nhẹ trên khóe môi khiến cô nổi lên giữa đám bạn bè cũ ở Thanh Khê. Cả bé Dung cũng có mặt. Hình như biết anh đang nghĩ gì, Lam kéo tay bà chủ Hương Quê đến bên bàn ngồi đối diện Quảng, ánh mắt cô long lanh, đôi má ửng đỏ. Bà chủ quán Hương Quê mau miệng: “Nó vô để mời tui và bọn ni ra ăn cưới đó. Mừng không chú?” Lam gật đầu: “Em sắp lấy chồng rồi. Vào thăm lại ông bà chủ, các bạn và cũng hy vọng gặp anh để mời anh ra dự đám cưới của em”. Quảng nhìn Lam, nhìn sang bé Dung. Cặp mắt sáng, những cái gật đầu của cô em gái Lam khẳng định điều Lam nói. Anh thở phào, cầm lấy tay Lam: “Mừng nhé. Chúc mừng em. Thật tuyệt vời”.
Vậy là hai vụ thu hoạch của Lam đã giúp cô vượt qua khó khăn ban đầu về kinh tế. Nhờ một ít vốn vay cho hộ nghèo và của Hội Phụ nữ, Lam đã vừa trồng sắn, trồng ngô, bầu, bí và chăn nuôi. Vụ đầu cô thu những gần chục tấn sắn. Một anh chàng lái xe tải trong khi “trung chuyển” nông sản của Lam từ bản Mán ra phố đã “dính” sự duyên dáng của cô gái Mán và họ yêu nhau.
Đà Nẵng, 10/2006 - Tam Đảo, 9/2011