Nhà văn - Nhà Báo - Bùi Quang Thanh

PHẦN MỘT - PHẦN HAI & PHẦN BA "Bùi Quang Thanh Thơ"

12:00, 15/04/2021bqtThơ
(0 Đánh giá)
Phần Một: ĐÒ DỌC SÔNG ĐÊM

Phần Một

ĐÒ DỌC - SÔNG ĐÊM

               (Trích trường ca)

Kính dâng Mẹ và Quê

 

Đò dọc - sông đêm

Chòng chành thuyền xuôi nhịp sóng

Đỏng đảnh mảnh trăng đầu tháng

Sông ngà vẩy bạc lăn tăn

Như là bơi giữa sông Ngân

Sao trời xé hình lưỡi mác

Lao xao tiếng cười tiếng hát

Anh thành trẻ lạc bồng lai

 

Chập chờn ruộng lúa bờ khoai

Sông Cày gợi về quê kiểng

Tóc em gợn mùa bưởi chín

Mắt huyền lúng liếng sông đêm

 

Bờ ơi! Người lạ, bến quen

Đêm chẳng chia người quen lạ

Đêm chẳng để em xấu hổ

Khi anh vô tình cầm tay

 

 

Chiêu Trưng - Người rã hội ngày

Mình anh thơ thẩn bến Cày, đò đêm

Phải thần, phải thánh xui em

Hay vì trời đất vốn quen ỡm ờ

Bàn tay chưa hết hững hờ

Sóng lòng đã rộn đôi bờ sông đêm

Người ơi! Bờ lạ, bến quen

Sáng rồi anh dắt tay em lên chùa

Sông dài, nhẹ mái chèo đưa

Đường đây đến đó chắc vừa hết đêm.

 

I

Huyền thoại núi Hồng

 

Hình như có tiếng đàn chim

Bay về từ trang huyền thoại

Cánh vỗ mơ hồ xa ngái

Như từ tít chín tầng mây

 

Mẹ bảo: xưa chim về đây

Đậu kín non Hồng trăm nhỏn

Đàn chim lông hồng, đốm trắng

Mắt biếc sao trời, kiêu sa

 

Mẹ bảo: chưa có bao giờ

Đàn phượng hoàng oai đến thế

Dang cánh tung vờn sóng bể

Đuôi dài tha thướt mây mưa

 

Núi Hồng như có châu sa

Lam Giang lắng dòng quên chảy

Chim Phượng đầu đàn lộng lẫy

Đảo mình ngó khắp bốn phương.

 

Một dải:

Hoành Sơn chắn mặt Nam

Hồng Lĩnh vờn phía Bắc

Dãy Trường Sơn chạy dọc

Sóng biển Đông giăng ngang

Ba phía ngút rừng xanh

Một bên trùng bể biếc

Gió đồng ngân khúc nhạc

Hồ trong gợn sóng lòng

Nước trăm mạch, trăm sông

Chảy xuôi cùng một hướng

Thế hổ chầu, long cuộn

Cảnh gấm dệt, vóc thêu...

 

Phượng đầu đàn khẽ kêu:

“Dải đất này đẹp quá!

Qua bao vùng quen lạ

Chưa nơi đâu sánh bằng”

 

Cả bầy chim đồng thanh:

“Dừng đây thôi. Tuyệt! Tuyệt!”

 

Cây bỗng xanh da diết

Đồng rực rỡ muôn hoa

Sông Lam cùng sông La

Lại ồn ào dậy sóng

Cả một vùng Ngàn Hống

Chim thú hát ca vang

Hát rằng:

“Núi không cao, biển không sâu

Người chưa đông, đất chưa giàu

Độc đạo một đường Nam - Bắc

Đông - Tây nối tận năm châu

Nắng nỏ trái đời thêm ngọt

Bão giông gốc rễ càng bền

Việt Thường dẫu chìm vào đất

Khí thiêng sông núi càng thiêng

 

Đất này: địa linh - nhân kiệt

Đất này: muối mặn, gừng cay

Đất này: đá mềm chân cứng

Chim lạc chim hồng đừng bay...”

 

Chim lạc chim hồng đừng bay!

Sải cánh kiêu sa chùng xuống

Mây trắng rẽ hình cánh phượng

Đuôi dài vuốt sắc xòe ra

 

           *

       *       *

 

Lời đồn đại tự ngàn xưa

Chim thần đi tìm đất đế

Nơi nào đàn chim chịu ở

Nơi đó sẽ là kinh đô

 

Vì sao ông Đùng khổng lồ

Chẳng xây đủ trăm ngọn núi?

Vì sao đàn chim huyền thoại

Không là chín mươi chín con?

Và từ chót vót chon von

Sải cánh uy quyền chững lại

Một phút giận - hờn - tiếc - nuối

Bóng hồng vút thẳng trời Nam...

 

      *

  *       *

 

Nín đi! Đừng khóc. Kìa em

Gạt sương đuôi mắt đợi xem chim về

Dẫu là sải đến muôn quê

Chim hồng chim lạc chẳng chê đất nghèo

Bóng xưa da diết mỗi chiều

Ráng mây chín đỏ câu Kiều thiết tha

Dáng xưa gần gũi chan hòa

Trên lưng mẹ buổi nắng nhòa mưa chan

Lá tơi xếp cánh đại ngàn

Chiếc khăn mỏ phượng đoan trang thuở nào

Mớ ba mớ bảy yếm đào

Như là đuôi phượng ghim vào thời gian

Miếng trầu cánh phượng bà têm

Cay từ nỗi nhớ đêm đêm góp thành

Hồng Lĩnh đỏ, dòng Lam xanh

Hiền hòa, chung thủy, đất lành đợi chim.

 

II

 

Nơi ấp trứng

 

Trứng Rồng nở ra Rồng. Lũ Rồng con chúng tôi lớn lên trong chiếc tổ cong cong hình chữ ét (S), đầu gối lên núi Bắc, chân gác sóng biển Nam. Chiếc tổ như dáng rồng bay lượn, như dáng hình con sóng, chênh vênh bên nước bên non, chênh vênh nối Trời với Đất. Lũ Rồng con không vương miện, không lòe loẹt sắc màu, ở với đất có màu nâu bùn đất, ở với rừng nhuốm màu chàm màu lục, ở với sông có vẩy bạc vây trong. Trăm năm rắn thành tinh, ngàn năm Rồng cứ là Rồng, giữa vần vũ mây mưa vẫn mơ mòng phun châu nhả ngọc.

Những nhà thông thái nói: Mọi sinh vật bắt đầu từ nước. Mẹ tôi bảo: Cá gáy vượt thác Vũ Môn để hóa ra Rồng. Tôi đến Vũ Môn, nơi giao thoa giữa Trời với Đất, thấy ngọn thác từ chín tầng trời rơi vào trang cổ tích, thấy chín tầng mây chất chồng lẫn vạt ngô non (có phải cha ông tôi xưa dựng nên đỉnh Giăng Màn, cho cá gáy hóa Rồng qua màn mây trướng gió) - gió chẳng vô tình, mây không buông thả cứ hát khúc nghìn năm con cháu Tiên Rồng.

Em nhìn kia: Phía ráng đỏ là cuối dòng sông; nơi lát nữa vừng dương sẽ mọc, nơi gặp gỡ của nguồn non mạch nước và con đò đêm chúng mình sẽ cập bến Long Ngâm. Long Ngâm - vẫn là những thân rồng xoắn quện vào nhau thành hình hài

xứ sở - đã nghe nồng mặn xóm diêm, xóm chài, sóng lay bờ đá... muôn âm thanh hòa tấu tự Thiên Cầm vọng mãi Đèo Ngang. Kỳ vĩ vì thắng cảnh, xúc động bởi chiến công, một dải non xanh nước biếc trập trùng mà hội tụ bao thăng trầm lịch sử. Đứng ở đây, em có nghe tiếng đàn trời thả vào trong âm âm sóng gió, tiếng mười vạn tiền quân cùng Lý Thường Kiệt vượt Đèo Ngang vào Ô, Rí bình Chiêm; mười vạn hậu quân reo làm yên lòng vua Trần và quân dân Đại Việt; mười vạn trung quân theo voi Nguyễn Huệ đập tan lũ xâm lược kiêu hùng...

Đứng ở đây nhìn ra ba phía núi, những vỏ trứng Rồng lúp xúp ẩn hiện mây mưa, tôi biết rõ vỏ trứng nào sinh đế, sinh vương, vỏ trứng nào sinh thi nhân dũng tướng.

Cám ơn mẹ Âu Cơ khéo khâu chiếc tổ Rồng cheo leo trên bán đảo để khúc ruột miền Trung thành nơi ấp trứng sinh nở anh hào. Những đứa con của Long Quân vươn vai đi mở nước, không vương miện trên đầu mà rực rỡ trời sao.

Và chính em - những gái cưng của mẹ - đảm đang, chung thủy, dịu hiền. Em chẳng biết mình là vành nôi của bao thế hệ, lời ru ngọt ngào cho đất nước hồi sinh.

 

III

Lay thức

 

Tình cờ tôi tìm được cuốn lý lịch ông tôi chuột đã gặm bốn bề, nanh vuốt thời gian bập vào quá khứ. Từng con chữ long lanh như mảnh thủy tinh vỡ soi vào tôi bằng giọt mắt  ngấn sương. Chẳng hiểu vì bận bịu hay vô ý thức mà tôi đánh mất dần

những gì còn lại của tổ tiên, đánh mất một thời vinh quang và cay đắng. Để lúc chiêm ngưỡng các tượng đài, lướt qua nhà truyền thống, tôi trầm trồ thán phục như trước các chiến tích siêu nhân. Thì ra lũ chuột thính mũi nhọn răng lại ưa máu thịt cha ông đẫm trong lịch sử.

Trước mặt tôi là ngày mai. Sau lưng tôi là quá khứ. Tôi đón nhận Ngày Mai dửng dưng. Tôi vĩnh biệt Hôm Qua thờ ơ như người buồn ngủ. Tôi vô tư nuốt những tháng ngày ngắn ngủi tạo hóa ban cho. Ngửa mặt lên trời tu chén rượu, liếc mắt

xuống đất kiếm nụ hoa. Bầu trời đầy mây bông mà tôi không nghĩ được tôi chẳng thể so với những chùm mây lơ đãng ấy. Mây hợp, mây tan, mây rữa thành mưa bụi nhưng mây vẫn là mây trong vũ trụ xoay vần. Bông hoa nào cũng xinh tươi và mới mẻ. Bên cạnh bông đang chuyển nụ còn chỗ của bông hôm qua đã tan vào gió chẳng để lại hình hài. Tôi không được như mây: tái tạo. Tôi không được như hoa: rực rỡ một thời. Tôi là tôi thôi: lu mờ, hờ hững, nhỏ nhoi, nếu sôi động chút nào - có chăng - cũng vì miếng ăn tấm mặc, cũng vì gió lay mưa thức trong xôn xao chợ búa kiếp người.

Tôi là tôi thôi: kẻ mắc nợ trần gian như chúa Chổm - nợ bầu trời một ngụm ô xy, nợ cánh đồng một bông lúa chín, nợ mẹ đôi bầu sữa lép với câu đò đưa bên cánh võng ngọt ngào. Tôi nợ giọt mồ hôi trượt qua nếp hằn trên trán bố, nợ cây đa đầu làng chìa râu cho tôi đu võng tuổi thơ. Tôi nợ con sông quê khi vùi tấm thân lấm láp giữa dòng trong vắt, sông gột rửa tôi bằng giọt lòng, gạn những gì tôi bỏ lại, lắng đọng đôi bờ thành dịu ngọt phù sa.

Tôi là tôi thôi: một sớm giật mình nhìn những mẫu chữ thủy tinh chuột gặm, cuống cuồng chạy đi nhặt nhạnh chắp nối quá khứ tiền nhân. Cha ông tôi chứ đâu phải thiên thần. Những mẫu chữ kết vào nhau thành sợi xích nối tôi với các thế hệ xa xưa, sợi xích kéo tôi ngược dòng thời gian nhưng không lạc vào vườn cổ tích. Nơi tôi đến là nơi rất thực và tôi đã tìm ra báu vật của mình.

Lịch sử ông cha - Lịch sử xuyên qua nắng - mưa - máu - lửa. Những trang huyền thoại kia truyền từ đời này sang đời nọ là để thi vị hóa cuộc trường tồn gian khổ trên dải đất chênh vênh. Lịch sử ông cha tôi có hình dạng tảng băng: một phần

nổi, ba phần chìm, kẻ vô tâm chẳng thể nào hiểu được.

Ai dám bảo chín chín đỉnh non Hồng không phải là ẩn số. Ai chưa dám tin Kinh Dương Vương từng tọa lạc nơi này. Đàn chim phượng vô tình vỗ cánh hay tôi vô tình để một mắt xích còn thất lạc đâu đây?

Đừng dùng mũi xà beng cậy vào núi đá mong khơi lên cổ vật ngàn đời, sau đám mây ảo mờ Hương Tích - nàng Diệu Thiện ôm nguyệt cầm cất tiếng hát khơi vơi. Nàng hát về dải đất hẹp phơi mình trong gió cát, những người nông dân một nắng

hai sương tần tảo nuôi đời. Rằng giọt mồ hôi trên hạt thóc củ khoai cũng mặn không kém gì muối chưng lên từ biển. Rằng: Chẳng phải ngẫu nhiên mà hạt lúa cũng tự mình hai đầu biết nhọn. Rằng: Dòng Lam trong xanh bởi đầu nguồn Ngàn Sâu, Ngàn Phố xanh trong. Cám ơn nàng đã nhắc ta lẽ sống: Cội nguồn.

Nàng kể: Từ nền Trang Vương nhìn ra bốn phía, phía nào cũng đầy ắp giai điệu thơ - phú - dân ca. Lời kẻ sĩ mịn như Hoa Tiên, đẹp như Kiều, nghênh ngang như Uy Viễn. Lời phường cấy, phường cày mộc mạc vè dặm; tha thiết giọng đò đưa, phường vải, ca trù.

Nàng kể về những chiếc áo tơi xù lông trong nắng hạ, những cặp môi thắm trầu chín đỏ buổi chiều đông cứ xôn xao bốn phía ruộng đồng lời vấn vít yêu đương cùng bao chuyện nhân tình thế sự...

Cái giàu đang ở tương lai - cái nghèo chưa thành quá khứ. Những câu ca muôn thuở giăng mắc cõi lòng...

 

IV

Viết từ những câu ca

 

“Yêu quê yêu nhất cánh đồng”

Đồng chua sông mặn cò không lối về

Nghìn năm vẫn mái tranh quê

Mẹ tôi tơi lá nón mê chống trời

“Tháng ba trong nước em ơi”

Củ khoai tím cả vỏ ngoài ruột trong

 

Mẹ làm cánh vạc mom sông

Cha buồn như lão Thần Nông mất mùa

Đói lòng nên mỗi câu ca

Cũng thơm “rau muống với cà dầm tương”

 

Đất nghèo hạt chữ câu cơm

Áo nâu lộn trái đỡ sờn nắng mưa

Lát bầu héo ủ thành dưa

Mít non làm nhút, khế chua làm quà

Bát chè xanh nóng xuýt xoa

Đêm thanh trăng tỏ nhà nhà ới nhau

 

                 *

            *        *

 

Chẳng là “phên dậu” gì đâu

Mà xa cuối đất mà sâu cùng trời

Chiến chinh khói lửa tơi bời

Một gang đất lệch mấy thời binh đao

Phế - hưng cũng chốn quân vào

Thớt voi, vó ngựa, chiến bào chen nhau

Đèo Ngang đá xám còn nhàu

So chi hoa lúa đọt màu non tơ

Thuyền chật biển, súng ken bờ

Nghìn năm nước dựng - mấy giờ dân yên?

 

Chắp tay con vái tổ tiên

Ngực trần dám chịu hòn tên hai bề

Cũng vì yêu đất thương quê

Nghĩa nhân ban phát, gom về bão giông

Ăn đầu gió, ngó cuối sông

Giọng trầm âm đục mà lòng thanh cao

 

Dẫu dũng tướng dẫu thi hào

Hồn cha tình mẹ lặn vào máu tim.

 

V

Mai Hắc Đế

 

Mẹ ơi bảy nổi ba chìm

Cây đa, bến nước, sân đình mẹ đâu?

Vai gầy oằn nặng khổ đau

Lá trầu còn thắm buồng cau đã lìa

 

Cha con phận mỏng không về

Đã đành chưa trọn lời thề nước non

Nhưng mà còn mẹ? Còn con

Tổ tiên ta đó và còn ngày mai...

Đường duyên ngắn, quãng nợ dài

Mẹ ơi! Hạt muối làng Mai xát lòng.

 

Sức trai bế cả non Bờng

Lôi dãy Long Ngâm chồng lên chót vót

Sức trai chẳng bế nổi mùa giáp hạt

Muối trắng làng Mai trắng mắt dân nghèo

Gió Lào tràn lên xóm lúa nắng thiêu

Không gạo

Không khoai

Muối thay cơm sao đặng?

 

Mấy trăm năm từ độ gieo lông ngỗng

Gót giày quân Bắc xéo non sông

Núi cao Mã Viện yểm cột đồng

Lừa dân Cao Biền gieo trò phù thủy

Viên ngọc trai từ tăm tăm đáy bể

Cặp sừng tê hun hút cuối rừng sâu...

Vòi bạch tuộc bọn xưng danh “Thiên tử”

Vét tận cùng đọi cháo đĩa rau

 

Mẹ nhịn nhục nuôi ta thành tráng sĩ

Ta vươn vai làm cột trụ chống trời

Con Rồng Đen từ sông Cày cửa Sót

Thua kém gì Thiên tử? Mẹ yêu ơi!

 

Đòn gánh tre vung lên - toang đầu giặc

Một tiếng hô sấm sét dậy muôn lần

“Bảy trăm năm người Nam có Hoàng Đế!”

Quả vải quê nhà làm bữa tiệc khao quân

Nâng quả ngọt chắt chiu từ cằn cỗi

“Nào chạm nhau, những trai tráng quê mùa

Ta xưng Đế cho dân Nam có chủ

Với bạn bè ta vẫn Cu Đen xưa”.

 

“Ta xưng Đế cho dân Nam có chủ!

Ôi Vua Đen - Mai Hắc Đế oai hùng”

Cơn gió lớn quét quang trời Giao Chỉ

Từ quả trứng Rồng bên núi Long Ngâm.

 

VI

 

Ngát thơm

hương suối hương ngàn

                   Gửi Hương Khê

 

*

Trà Sơn gối đầu lên Trường Sơn

Giấc yêu đương ngàn năm trống mái

Cá vượt Vũ Môn cá hóa rồng huyền thoại

Gió vượt Khe Giao gió lạc giữa hương ngàn

 

Tôi về làm ngọn gió lang thang

Qua núi

qua non

qua đồng ngô bãi sắn

Cùng mẹ mang tơi xuyên ngày mưa tháng nắng

Cùng bố rèo trâu ra ruộng kéo cày

Hương rừng thơm cho ong bướm cùng say

Ôi mảnh vườn xanh hoa chanh hoa bưởi

Cành sim trên đồi bông mua dưới suối…

Cứ ngát thơm

 như tình mẹ

 Hương Khê

 

**

Ngàn Trươi hòa dòng cùng Ngàn Sâu

Bầu sữa mẹ ngọt lành nuôi xứ sở

Chín khúc Hội Nai rồng về cuộn tổ

Để suối khe muôn dáng long chầu

 

Quê hương tôi núi cao sông sâu

Có hạt ngô thơm, có cam bưởi ngọt

Điệu ví, câu hò sớm chiều dìu dặt

Yêu thương rất nhiều bởi lắm khổ đau.

 

Quê hương tôi ngàn xưa - ngàn sau

Muối mặn gừng cay, tình quê chân thật

Nhút mít ưa chua nước chè ưa chát

Ân nghĩa tràn đầy như hồ nước Trăm Năm.

Đất cằn khô cây hóa trắc, hóa trầm

Như mẹ cha tôi cũng hóa trầm, hóa trắc

Rắn rỏi, can trường khi đương đầu với giặc

Thơm ngọt, dịu dàng khi với cháu với con.

 

***

“Cá gáy vượt thác Vũ Môn để hóa ra rồng”

Rồng - biểu tượng của tổ tiên người Việt

Đừng ai nghĩ đó là truyền thuyết

Mảnh đất này Tiên, Phật có xa đâu.

Mảnh đất này xưa đói cháo thiếu rau

Người thương người vẫn nhường cơm chia áo

Cho những vùng sâu vùng xa lụt, bão

Cho những bản nghèo Giằng, Chứt, Rào Tre…

 

****

Mặt trời thức trên Trà Sơn, ngủ cuối Giăng Màn

Một ngày quê tôi giữa hai triền núi

Ngày ngắn đêm dài nên ai cũng vội

Riêng tiếng gà báo thức kéo dài hơn

 

Suối chảy từ nguồn nơi cá hóa long

Trong nước suối có hương rừng hương đất

Cây cỏ ngát hoa, giàn ong trĩu mật

Và tình đời cũng dào dạt như thơ…

Hương Khê ơi! Yêu đến tận bến bờ.

 

 

VII

 

Một thoáng Chân Tiên

 

Biển dát bạc, thuyền dong buồm, làng Thịnh lượn quanh quanh mép sóng, như chiếc đòn tre oằn nặng quảy một đầu núi Bờng và đầu kia là dãy Tiên An. Mấy mươi năm rồi giờ đây lại mở hội làng. Gã tiều phu ngày nào gặp Tiên đang say sưa kể chuyện: “Buổi sáng ấy mây quang trời lặng, gã đắm mình trong giấc sơn lam... Bỗng hương thơm từ đâu bay tới ngào ngạt núi rừng, tay rẽ lá cây gã nhìn xuống núi, dụi mắt ba lần gã cũng chưa tin nổi khi thấy bốn cô Tiên trên nước biếc... tắm tiên”.

Chuyện xa xưa giờ bao kẻ vẫn thèm (mắt trộm liếc xuống Bàu Tiên nắng nhuộm).

Đường lên Chân Tiên, sau lưng ta biển vẫn dạt dào điệu ru ngàn đời của sóng. Trước mặt ta: bên này núi cao, bên kia hồ rộng. Ráng mây trời chớp trắng cò bay.

Người! Cơ man là người. Đá! Nhấp nhô những đá.

Chao ôi! Sơn thủy hữu tình, giai nhân tấp nập. Lạ thay! Giữa vùng làng mạc ruộng đồng - đất như khô cằn, người như lam lũ - lại có một miền xanh hội tụ buổi “thanh minh trong tiết tháng ba”.

Nào! Ta cùng bạn lên rừng. Con đường ngoằn ngoèo khúc khuỷu. Tảng lờ trước những đôi mắt huyền quyến rũ. Khấp khểnh đưa chân lên từng bậc đá lì trơn. Một thoáng thôi, vừng trán vừa kịp rịn mồ hôi, trăm cảnh lạ đã phô bày trước mắt.

Kìa: Bàu Tiên ngăn ngắt, hình thế như bàn chân một khách siêu phàm, triền núi ôm nước biếc mơn man, ba bề núi, một phía làng thấp thoáng. Tinh một tý, xa xa sau làn nắng (xin bạn đừng reo) có ai ngà ngọc ngâm mình. Truyền thuyết kể rằng dấu tích Bàu Tiên là cú nhún của Đế Thiên khi nhảy lên Bàn Cờ Đá. Bạn chẳng tin ư? Thì dấu xưa còn đó: Này tướng, này quân, này bàn, này... chỗ các ông ngồi tóc trắng đã thành mây. Kìa: Vệt đá lún sâu vừa vặn một dấu hài nho nhỏ xinh xinh trên nền đá xám (là chỗ bốn nàng Tiên xuống tắm, bắt gặp ánh mắt ai cả thẹn loáng về trời). Nhẹ như Tiên vẫn lún...đá người ơi, bạn đừng e ngại khi so hài dấu cũ.

Nào! Đi lên. Men qua những gốc thông già mành tơ buông rủ, ngôi đền Tiên nằm giữa mộng mơ. Người chen vai trong nến đỏ sương mờ, lá cờ Phật tung bay vừa gần vừa ảo. Thắp nén hương trước những gì xưa cũ, trong lòng thầm ước cảnh ngày mai - vẫn đá, vẫn cây, vẫn dấu tích, vẫn người - nhưng tiên cảnh thêm bàn tay độ thế.

Ai ngẩn ngơ nhìn đôi trai gái trẻ, hai mái đầu xanh chụm sát trước linh môn? A! Ngày mai cậu ấy đã lên đường. Mắt cô gái cay xè sau làn khói xám. Một lời nguyện chỉ Đất - Trời nghe đặng mà xao lòng muôn ngọn sóng trùng khơi. Nước da nâu của cậu cả xóm chài chợt ửng khi chạm bờ môi thôn nữ. Nhớ nghe em, dù ngày mai chân trời góc bể, lòng vẫn bên lòng như tình của Mẹ - Cha, như Đá Ông luôn bên cạnh Đá Bà, chốn động Thạch - non Hồng, nơi hẹn hò tao ngộ.

Bảy trăm năm rồi ai lập Tiên An Tự để quây quần động đá giữa ngàn mây. Nhẹ gót thôi, mời bạn rẽ lối này, nước giếng Ngọc xanh trong như sương sớm. Vục làn nước thoảng hương đời ngọt mát, soi nụ cười như thuở trước ai soi. Là giếng ư? Hay gương của người Trời, nhỡ sót lại khi vội vàng xiêm áo?

 

                                *

                           *        *

 

Ông cha mình với bao nhiêu hoài vọng nên ở chốn trần vẫn gần gũi cảnh tiên, nên am động hoang sơ hóa nơi ở thánh hiền, cả viên đá cũng thành quân, thành tướng.

Ông cha mình quen dãi dầu mưa nắng. Mảnh thuyền nan dám xé sóng ngàn khơi. Trên cát khô cây mạ lớn cùng người. Vẫn mặn muối cay gừng trong đạo nghĩa.

Nhân kiệt - Địa linh. Hẳn là phải thế. Một vùng non nước đâu chỉ có thánh thần và tên tuổi hư không.

  Lễ hội Chân Tiên, tháng 3-199732

 

VIII

 

Mẹ chọn năm sinh tôi

 

Mẹ chọn năm sinh tôi

Năm thế kỷ hai mươi bị tách làm hai nửa

Nửa đầm đìa tủi nhục bỏ lại phía sau

Tự do rộng dài theo bước chân giải phóng

Áo trấn thủ cha mang dấu võng tôi nằm

Chiếc võng lác đầm đìa hương cỏ mật

Đẫm nắng mặt trời

Đẫm gió - sương – trăng

 

Cha cùng Trung đoàn hành quân vào Bình - Trị

Hoành Sơn quan giăng chiến lũy ngăn thù

Đoàn Vệ quốc bạc đà mây, chân đất

Đến Ba Rền, Cự Nẫm giữ chiến khu

 

Súng giặc nổ. Bốn phương súng nổ

Đất tự do một tay mẹ chống chèo

Một tay mẹ giữa mưa nguồn chớp bể

Tôi: cục than hồng.

Tôi: mảnh trăng treo…

 

Cha cùng Đại đoàn hành quân lên ải Bắc

Mẹ chẳng địu tôi lên vọng đá đợi chờ

Vạt lúa lẩy đòng, vồng khoai chưa tủ

Dưới Thiên Cầm tàu chiến giặc mò vô.

 

Hạt gạo cũng theo người ra hỏa tuyến

Bồ dân công đan tre cật vườn nhà

Những lóng tre vỗ về tôi từng giấc

Giã xóm làng cõng gạo tiếp sức cha

 

Quê hương ơi những chiều trong cổ tích

Đám trai làng ra trận ba lô mây

Cánh đồng quê tà váy nâu nhuốm đất

Bước chênh chao không chịu lỗi nhịp cày...

 

                     *

                 *      *

 

Tuổi tôi đếm theo từng tên chiến dịch

Một tuổi: Biên giới

Hai tuổi: Hòa Bình

Ba tuổi: Tây Bắc

Bốn tuổi: Điện Biên

Dõi chân trời tìm bóng cha bóng chú

Ráng mây nào từ lửa khói bay lên?

 

                  *

             *        *

 

Cha tôi: vầng mặt trời

Gần thì bỏng rát

Xa thì nhớ mong

Mẹ là tấm gương

Không! Mẹ là vầng trăng

 buồn và trong dẫu đầy dẫu khuyết

Tấm gương - vầng trăng, phản hình bóng cha

 vào tôi âm thầm mãnh liệt

Tôi hấp thụ Người cả lúc xa xôi

 

Tuổi hai lăm

Cha nhận sứ mệnh của người Vệ quốc

Hăm hở ra đi như ra hội ra đình

Mẹ lặng lẽ gánh phần cha để lại

Một nửa việc nhà

Một nửa - cuộc chiến tranh

 

            *

        *      *

 

Anh tôi, chị tôi và tôi

Líu ríu trong thúng đời của mẹ

Mẹ đang kì son trẻ

Yếm trắng che khoảng áo ngực để hờ

Khoảng áo ngực dành cho tôi bú

Những bữa chiều vơi bát nheo, khô

Bầu vú mẹ là món quà duy nhất

 thường xuyên tôi được nhận

Là nắm cơm ngon nhất tôi được ăn

Là quả thị thần tiên trong cổ tích

Là chiếc kẹo cu đơ vĩnh cửu ngọt ngào

 

Khoảng yếm mẹ là bầu trời tôi sờ được từng vân mây

Tôi vuốt được từng sợi tóc

Nơi mẹ thường cúi xuống nựng tôi

Giọt mồ hôi trên môi Người mặn chát



 

Khoảng yếm là nơi phập phồng của nghìn đêm thao thức

Chồng ngoài chiến trận

Con đói bờ nôi

Lo bão tốc nhà

Lo lụt trôi khoai

Phập phồng nắng mưa

Phập phồng đạn bom

Phập phồng… im lặng

 

Da diết nỗi tình thâm mẫu tử

Mẹ hát ru tôi, mẹ hát ru mình

Công trời bể sinh thành trong bài ca ấy

Chẳng nhắc gì về những cuộc chiến tranh

Chẳng nhắc gì mà cứ oằn lưng mẹ:

Đứa lên một, lên hai

Đứa lên ba, lên bốn

Đứa bé bao giờ lớn

Đứa lớn bao giờ khôn

Đứa khôn bao giờ cậy?

Lời mẹ ru mỏi mòn.

 

                  *

             *       *

 

Cha làm ngọn gió đi quét quang bờ cõi

Mẹ - dòng sông bám giữ đất quê nhà

Sông miền Trung

những cái tên mộc mạc:

sông Hội, sông Cày, sông Phủ, sông La...

Những con rồng đuôi víu vào vách núi

Mạch hòa cùng đất đai

Nối biển liền rừng

Chắt nước làm mây

Gửi mây vào gió

Gió và mưa tạo thành bão tố

Lụi dần lửa khói chiến tranh

 

Những dòng sông

Biết làm duyên bằng gợn sóng

Một khúc luyến cũng thành câu ví dặm

Thành câu đò đưa tha thiết đến nao long

 

Ơi ngọn gió. Người ơi! Ngọn gió

Rong ruổi lưng trời có biết một đời sông?

                            Hà Tĩnh 2000

                 Trại viết Đại Lãi, 9-200339


PHẦN HAI

LỜI HƯƠNG KHÓI

 

Hà ơi!

Chén rượu trắng chắc em không biết uống

Khói hương thơm bay hết cả lên trời

Giọt lệ anh rơi vào lòng đất

Có ấm chỗ em nằm? Hà ơi!(*)

 

Mười chị em ngủ hai tám năm trời

Ngàn thông xanh như tóc em mười bảy

Cụm sả ai trồng thơm trong nắng cháy

Thay hương bồ kết bạn anh mong.

 

Tiểu đội dàn hàng hai ngoảnh mặt xuống đường

Hố bom Mỹ chắn ngang sâu xoáy ruột

Chị Tần thương em không cho em đứng trước

Lúc hy sinh - Hà ơi có nguyên lành? 

 

Chẳng hiểu sao mỗi lần anh đến thăm

Hoa cỏ may níu dày hơn một chút

Những hạt ngâu màu buồn không chịu được

Cứ rưng rưng như muốn nói điều gì.

 

Hãy yên lòng bên các chị ngủ đi

Đừng sợ tiếng quạ kêu, đừng sợ bom lại nổ

Màu hoa đỏ cành bông trang bên mộ

Nhắc anh không quên được một thời

Ngã ba này - những mất mát - Hà ơi!

Đồng Lộc, tháng 5/1996 

 --------

(*) Võ Thị Hà: Một trong 10 nữ Liệt sĩ TNXP hy sinh ở Ngã ba Đồng Lộc lúc mới 17 tuổi. 

 

  Hạt đắng 

 

Con trở về khi không còn mẹ

Cỏ non tơ phủ mái tóc trắng ngần

Ngỡ mắt mẹ sau làn sương khói mỏng

Đau đáu nhìn. Con rối những bước chân

 

Mùa lạc ấy chúng con: ba t   hằng lính

Chiến trường ra da sốt rét xám vàng

Mẹ đi buôn - cho là không lương thiện

Nên mấy thằng thường trộm lạc đem rang 

 

Những hạt giống ấp trong chum sành đỏ

Phủ lá chuối khô nuôi giữ mầm đời

Những hạt giống trái tim già ấp ủ

Con lỗi lầm để ẩm mốc, mẹ ơi.

 

Chết trong mẹ niềm tin gieo hạt giống

Sống trong con hạt đắng chẳng nguôi tàn

Bao mùa lạc đời vẫn dâng sức sống

Con cúi đầu

 hồn trắng một vành tang.

       Hương Sơn 10-1974/ 10-1996 

  

Đối mặt với tử  

(Tặng anh Uông Xuân Lý - AHLLVTND)

  

Khi lưỡi gạt chiếc máy ủi cà vào

vỏ quả bom nổ chậm

Tiếng rít rên như cánh cửa tử thần

Những sợi tóc sau gáy anh đội mồ hôi đứng dậy

Chân ga chùng, tay số bỗng phân vân

 

Nắng Đồng Lộc đỏ

Trời Đồng Lộc trong

Nước mắt mặn trên môi đồng đội

Có trái tim của người con gái

Thắt nghẹn phía sau anh.

 

Đồng Lộc

Nghìn quả bom dội trên lưng

Nghìn tấm lưng thịt xương giữ

 con đường huyết mạch

Trời có thể nghiêng trong tiếng bom

Xe không thể một giờ ùn tắc.

Mặc nỗi sợ dựng lên từng vón tóc

"Nó" đây rồi - bánh xích cứ trườn lên.

Gạt quả bom ra khỏi tim đường

Đẩy thần chết đến ngoài tầm nguy hiểm

Anh xỉu xuống trong tiếng hò thông tuyến

Có cặp mắt vừa khóc vừa cười của cô gái

sát môi anh.

 

 

  Nỗi đau lòng mẹ

 

Nỗi buồn qua cánh võng gai

 Đậu lên mặt mẹ, ngân dài "à ơi"...

 Dẫu cho đi hết cuộc đời

Mẹ ơi ánh mắt chẳng vơi nỗi buồn

 

Có ai níu được hoàng hôn

Có ai sẻ bớt cô đơn cùng Người?

Như mông lung cuối chân trời

Các con bé bỏng mải chơi quên về

Như nao nao giữa chiều hè

"À ơi"... tiếng mẹ - tiếng ve khản rồi

 

Tay già run rẩy bờ nôi

Nỗi đau lòng mẹ sau thời chiến tranh.

 

NHỚ

 

Em nhỉ, thế là xuân lại đến

Cành đào vườn mẹ đã đơm bông

Nhìn hoa chớm nụ lòng anh nhớ

Cái thuở môi em chúm chím hồng

 

Nhớ mãi xuân nào mưa rây hạt

Ba lô con cóc oẵn lưng thon

Rưng rưng mẹ tiễn ra đầu xóm

Em cười: "Con chống gậy lên non"

 

Giặc tan mẹ tựa mòn lưng cửa

Mấy chục mùa đào đã rơi bông

Mỗi khi về ngắm hoa vườn mẹ

Thương quá môi em chúm chím hồng.

 

ĐÊM PHÁO HOA TRÊN SÔNG SON

 Tặng các liệt sĩ TNXP ở Phong Nha - Kẻ Bàng

 

Kìa em! Dòng sông Son rực rỡ sắc màu

Màu của cờ hoa, thuyền bè, lễ hội

Anh như con cá mãi bơi - mắt em là lưới

Hãy vớt anh lên trên tất cả hội hè

 

Hãy vớt anh lên trên đỉnh núi có hang Mây

Để anh nhìn xuống dòng Son yêu dấu

Dòng sông hiền hoà, đau thương, nhuốm máu

Một thời, một đời, chịu đựng, cô đơn.

 

Bom địch gào tìm con phà Xuân Sơn

Pháo sáng chập chờn đèo Pu La Nhích

Ngầm Ta Lê áo trắng em làm đích

Cua chữ A vô lăng trẹo tay vần

Vết thương chưa khô đã trốn hang Bảy tầng

Bởi tiếng Tám cô kêu gào thúc giục

Phong Nha ơi! Hang động nào chứa được

Một thời, một đời chịu đựng đau thương?

 

Sao em không mặc quân phục mùa đông

Tha thướt quá bộ áo dài lễ hội

Có lạnh không em? Sông chiều gió núi

Mà má hường như lửa đỏ, cờ bay

 

Mềm lại rồi ư những bàn tay

Bẩy xà beng sạt từng thớ núi

Băm mấy năm rồi làm sao quên nổi...

Anh vẫn ngây ngô như con cá sông này

Cái đêm trời vần vũ mưa, mây

Đường đã thông em trèo lên cửa lái

Nụ hôn vội vàng, giọt mưa hôi hổi

Em thầm thì: "Mau trở lại Phong Nha!"

 

Kìa em! Kìa em! Kìa em... pháo hoa

Vút từ bờ sông vút lên đỉnh núi

Trời Phong Nha - Kẻ Bàng cao vời vợi

Em lẫn vào đâu? Trời thiêng, núi thiêng này.

Em lẫn vào đâu sau xanh mướt rừng cây

Sau động thẳm hang sâu huyền ảo

Sau những cờ, xe, mặt người, sắc áo

Ôi lung linh! Em cao vút tượng đài...

      Đêm lễ hội Di sản PN-KB. 2/2004

 

Những căn nhà của mẹ  

              Tặng Nhạc sĩ  Thế Hiển 

 

 Những căn nhà con không bao giờ xây nổi

Để chứa cô đơn trái tim mẹ khôn cùng

Mẹ ơi! Mẹ ơi! Con xin làm viên gạch

Chắn gió lùa thay tấm liếp ngày đông

 

Các anh con đi mãi không về

Mẹ là cây tre chẳng thể chờ măng mọc

Mẹ ơi! Mẹ ơi! Con xin làm nốt nhạc

Nâng lời ru tiếng nấc nghẽn mai chiều

 

Những căn nhà chưa gói trọn thương yêu

Lời mẹ dặn: còn trăm nghìn mẹ nữa

Mẹ ơi! Mẹ ơi! Lòng mẹ là giọt lửa

Nung nấu tình con xây tiếp những căn nhà.

  

Bên tượng đài 

Anh hùng Phan Đình Giót

 

Anh lầm lũi tìm con cua con cá

Trẩy trái bần chua hói Tùng lót dạ

Rổ sim chiều hái tận miệu Than

Đỡ những tháng ngày đói rét miên man...

 

Nếu không có một mùa thu cách mạng

Cờ đỏ bay - cuộc kháng chiến trường kì

Thế hệ anh và sau này - tôi nữa

Sẽ là gì trong nô lệ, khinh khi?

 

Đoàn Vệ quốc trùng trùng lên Tây Bắc

Vút ngàn xa, chân đi vai vác

Sức vóc nông dân dày dạn đói nghèo

Anh cùng đồng đội vượt cheo leo

 

Tiếng cuốc xẻng đào chiến hào tiếp cận

Ôi hoành tráng những ngày đêm "vây lấn"

Cánh tay các anh siết chặt kẻ thù

Trận quyết chiến này âm hưởng đến thiên thu

 

Khi lồng ngực Anh ấp trùm lên hoả điểm

Súng giặc nghẽn. Đồng đội Anh xông đến...

Tổ quốc bật lên khúc khải hoàn

Tràn ngập đỉnh đồi A1, Him Lam

 

Năm mươi năm - biết bao mùa lúa trổ

Anh vẫn về hái sim cùng lũ trẻ

Hương đồng quê thơm vấn vít tượng đài

Bần hói Tùng hoa đỏ thắm hôm mai

 

Đến thăm Anh, hình như Anh đi vắng

Trong khói hương chiều vàng gió lặng

Chợt âm âm rừng lá bạch đàn:

"Mình bận về Tây Bắc ngắm hoa ban".

                        Cẩm Quan, 4/5/2004

 

Đêm A Lưới 

         Kính tặng mẹ Vít

Đêm A Lưới trời như chùng thấp

Vài ngôi sao ngơ ngác vén mây rừng

Ngọn gió lạnh từ bờ thông e ấp

Ríu tóc người từng sợi bạc rưng rưng

 

Trăng rắc sữa qua khói sương mờ ảo

Nghĩa trang đêm quạnh quẽ lối hàng

Nghìn đứa con không tên không địa chỉ

Mẹ chia đều mỗi đứa một cây nhang*

 

Những tiếng nấc "Mẹ ơi!" trong gió thoảng

Tượng đài cao run rẩy giọng trăm miền

Nghìn con mắt đỏ mòng đêm thương nhớ

Gió chợt dừng.

Trăng lạnh.

Phút giây thiêng.

 

 Ngày ra đi con là măng là sữa

Giờ con về con là đất là đai

Hạt máu mẹ thấm vào rừng biên giới

Trong quế thơm - hoa trẩu trắng lưng trời

 

Sấp ngửa đồng tiền. Âm dương hòa hợp

Con nằm đây. Con đợi mẹ lâu rồi

Bọc đất nâu như hài nhi khát sữa

Riết vào lòng bật tiếng nấc "à ơi"   

                        Tháng 4-2000

 

Lời ru đồng đội

 

Ngủ đi giấc ngủ ngàn xưa

Lời ru nhè nhẹ. Rừng dừa gió xao

Trập trùng lũng thấp đồi cao

Qua truông có nhớ ngày nào vượt truông

Chẳng còn đạn dập bom dồn

Xin đừng mộng mị cho hồn thảnh thơi

Ngủ đi! Nào, ngủ - à ơi...

Ngọt ngào là tiếng ru hời mẹ xưa

 

Rừng chiều nổi gió tiễn đưa

Nén hương mồ bạn còn chưa kịp về

Bao năm đá gối đất kề

Mưa đông xối cỏ, nắng hè khét xương

Giờ ai hoang lạnh sa trường

Mà ai giã bạn lên đường tìm quê ?

Rừng sâu dây níu bốn bề

Nắng như đôi mắt đỏ kè rưng rưng...

  

Bao năm bóng xế trăng chùng

Bao năm đơn lẻ bạn cùng đất nâu

Rễ cây thay tóc trên đầu

Bạn đau mối đốt, mình rầu cỏ ăn

Hai thằng hai nửa tấm tăng

Vội vàng đồng đội đặt nằm cạnh nhau

Chiến trường chuyển hướng về đâu

Đêm dài dằng dặc rừng sâu hai mồ.

Khói hương hun hút đợi chờ

Lá rơi lấp lối sương mờ chốn mong

Nhặt thưa tiếng súng xa dần

Nín câm đợi tiếng bước chân bạn bè.

 

Ngủ đi! Nào ngủ - Đường về

Cây reo, suối hát, bộn bề lúa thơm

Ríu hồn cọng rạ dây rơm

Mo cau ngày ấy nắm cơm mẹ nghèo...

 

Liêu xiêu bóng đổ lưng đèo

Giật mình thảng tiếng bạn kêu cuối rừng.

                     Bình Định, tháng 8/2001 

 

Tản mạn Vĩnh Linh  

 

  I
Hai lăm năm

Chiến trường xưa đã ken đầy cây trái

Ai còn đi tìm ai ngủ quên trong lòng đất chưa về

Anh linh hỡi nhắn lời qua hương khói

Về giữa đội hình dầu chỉ một tấm bia

II.

Chẳng nỡ bới tìm trong thời gian vụn vỡ

Vết sẹo đã khô sao vẫn muối xát lòng

Mẹ gói đau thương đặt vào núm rốn

Đôi mắt mờ lệ đỏ chảy vào trong.

"Bàn chân mẹ từng dẫm lên mảnh bom mảnh đạn

Không thể dầm nữa trong bùn!"

Câu nói khẽ mà như dao chém đá

Tôi nghe từ người chủ tịch Vĩnh Linh

 III.

Hút tầm mắt qua cửa Tùng - biển vời vợi sóng

Trong không trung thấp thoáng những cánh buồm

Em chỉ vệt xa mờ: Cồn Cỏ

Và thì thầm: - Giá anh ở lâu hơn...

Em gái Vĩnh Linh suýt truột mấu đòn triêng

hồi mẹ gánh qua cầu đi sơ tán

Lun cun ra kiếm củi núi Hồng

Đừng trách nữa, nếu một ngày anh trở lại

Em có cùng ra Cồn Cỏ với anh không?

                                     3-1997

  

LỜI HƯƠNG KHÓI

 

 Khúc 1

 Trước khi lẫn vào thinh không khói bếp Mẹ nhen níu mãi vào rơm rạ. Giọt buồn cay xè mái lá. Cao rộng trời mây không gói nổi khôn cùng của kẻ ly hương.

Mắt Mẹ mờ sau bụi bặm thời gian. Khói thành mây, nắng thành sương, lá vàng rưng rưng vườn cũ.

 Nón lá áo tơi treo chùng vách nhớ. Vòi hái cong, lưỡi liềm cong ngoéo một thuở ruộng đồng. 

 Con đi. No tròn ba lô con cóc sau lưng. Hoa cỏ may găm đầy quần bộ binh đũng chấm ngang đầu gối.

 

 Khúc 2

Mỗi quả thị vàng đều mơ thành Cô Tấm: Thảo thơm giặt giũ, bếp núc tương cà, lúng túng đánh rơi hài đêm hội dân ca.

Gốc tre già dãi dầu bão giông, gió mưa quăng quật tơi bời vẫn khát khao mãi là thành lũy.

  Mẹ dâng hiến cho đời những gì mình có. Hạnh phúc được phân thân qua mỗi kỳ sinh nở, hạnh phúc được sẻ chia trong vụn vặt đời thường.

  Đôi vai gầy gánh trăm mùa lúa, xuyên vạn ngày sương, gánh cả thời con gái qua sông. Cha vào Vệ quốc quân, Mẹ chẳng để nhớ thương biến thành Tô Thị.

Mẹ dạy: Chim có tổ, cáo có rừng. Mẹ đếm từng ngày kị ông, giỗ cố. Mẹ mòn lưỡi lừa cá xương bù giọt sữa kiệt khô trong bầu vú xanh gầy. Mẹ ngắm con tằm khôn lớn trên tay mà không dám chờ ngày tằm nhả tơ thành lụa.

  

Khúc 3

 Cơn sốt bất ngờ bắt con nằm lại, đêm lạc rừng khắc khoải tiếng từ quy. Cánh võng “Tô Châu” quây tròn tổ kén ủ con tằm chống những cơn run.

Mấy quả dâu rừng chiều nao đồng đội hái, tê tê đầu lưỡi mềm lại bờ môi; lỗ thủng vô tình trên bọc võng xanh xanh một đốm sao trời. Là mắt Mẹ dõi tìm con chăng Mẹ - giọt mắt khô hút bóng con về, đồng tử tia hình sao năm cánh, chập chờn cơn tỉnh, cơn mê...

Đêm rừng già đơn lạnh. Gió ngàn ru lời Mẹ xa đưa. Đồng đội ơi! Sau giòn giã tiểu liên, trầm hùng đại bác, lộc xuân xanh chồi có khuất nẻo mòn xưa? Và Bình Minh - khi nhịp cầu nối lại, gương mặt Người sẽ rực rỡ nhường bao, đừng dồn hết hào quang soi mắt Mẹ, sau rạng ngời là diệu vợi niềm đau…

Đôi gót trẻ chưa dầm hết chín phương trời đất, chưa thành vai sắt chân đồng trên đôi dép tuột quai. Thằng con Mẹ háu ăn chóng đói, trân trân ngó mãi sao trời...

 

Khúc 4

 Nghèn nghẽn tiếng "ầu ơ...", cánh võng không bàn tay hụt hẫng. Cuối vườn thu vơi bay từng sợi nắng, rứt gì lòng mẹ - Thu ơi! Khói hương thơm đến lạnh người. Ngọn khói: tóc mây - chân hương: nguồn cội. Kẽo kẹt từ vồng tre ấm bụi "tre già măng mọc" mà thương.

Nơi Mẹ tiễn con đi - nơi Mẹ ngóng con về - nơi đồng vọng.

 Sừng sững tượng đài Chiến thắng - đìu hiu dáng Mẹ lưng còng.

Sao con là ráng mây hun hút cuối tầm, là ngọn buốt thổi phơ thêm mái tóc?

Con là khói mây bay giữa trời Tổ quốc, mãi không cùng trong lòng mẹ bao la. 

                                                        Thành Sen, cuối năm 1997  

 

Tình thư

  Kính viếng Liệt sĩ Võ Thị Tần

  

Chị ngã xuống rồi, tình thư vẫn đi

Như mũi tên của nữ thần Tình yêu tìm về vĩnh cửu

Băng qua muôn nẻo đường máu lửa

Trên vai người giao bưu

 

Chị ngã xuống rồi, lời tin lời yêu

Chẳng thành trầu cau - thành hòn máu đỏ

Để tình thư gói thương gói nhớ

Lặn lội đi tìm địa chỉ người yêu

 

Chị xa lắm rồi. Những lớp đất nâu

Cỏ và hoa đan đầy mộ chí

Chỗ ngày xưa bom vùi Mười Chị

Hậu thế xòe hoa những tượng đài

Chỗ ngày xưa chị run nét bút

Thư - thành tài sản của Hôm Nay

 

Người thiêng nói lời thiêng gửi lại

Bao lời thiêng từ cuộc chiến tranh này

Chuyền tay những người bưu tá

Để thành thông điệp gửi Ngày Mai

 

Trong đoàn người dâng hương Đồng Lộc

Có ai nhận ra sắc đỏ máu mình?

 

TRƯỚC MÀU MUA TÍM

Kính tặng 13 liệt sĩ A69

 

Anh về cùng gió núi

Muốn ôm ghì từng đóa hoa mua

Những cánh tím mịn màng môi thiếu nữ

Nghênh nghêng đôi sừng tuổi thơ

 

Mười sáu xuân em không kịp ước mơ

Đi không kịp chào

Chết không kịp khóc

Gái trai bên nhau như khúc gỗ rừng nén chôn cảm xúc

Ăn tựa miệng hầm

Ngủ giữa thảm bom

 

Tuổi mười sáu mà vầng trăng chưa tròn

Đã vởn bóng ma “cụp xoè”… ẩn hiện

Vầng trăng nhô lên từ biển

Vầng trăng vụt tắt sau rừng

Gió Lèn Hà trăm năm sau vẫn nấc

Cánh mua rừng màu tím mãi rưng rưng.

 

Đốt nén nhang bên hoa vàng nến đỏ

Mười ba đồng đội của tôi ơi

Cúi lạy những linh hồn đã hóa thành hoa cỏ

Ngưỡng mộ những anh hùng tuổi mười sáu đôi mươi

 

Khói hương chẳng đủ nhiều làm mây trắng

Chiều biên cương mua thăm thẳm kết buồn

Mái hang cũ rêu phong không xanh nổi

Cúi sát đầu dòng lệ thạch trào tuôn

Nỗi ấm ức rợn lên từng vân đá

Dẫu trơ gan trước tuế nguyệt muôn ngàn

Không che nổi những người con trung hiếu

Để bây giờ gió khóc trũm vòm hang.

 

Anh cầm chiếc ống nghe bốn mươi năm còn ấm

Áp vào tai, chợt nghe gió thì thào:

“A69 đây! A lô, nghe rõ”

Tiếng dỗi hờn như vọng tự trời cao. 

Hang Lèn Hà, 02/7/2016

*Nơi 13 chiến sĩ Bộ đội Thông tin (trong đó có 10 chiến sĩ gái tuổi đời từ 16 - 20) hy sinh ngày 02/7/1972 vì bom giặc Mỹ.

 

TIỄN ĐƯA

 

 Đất mở lòng đón anh về với đất

Người đào huyệt chẳng phải phu chuyên nghiệp

Gió trên đồi không còn hú vô tư

 

Quây quần bên anh là mộ ông bà

Nhiều bè bạn, những dòng tên hấp háy

Anh đi từ đây. Anh về phía ấy.

 

Tiếng trống tiễn đưa chọc thủng vòm trời

Bóng người tiễn đưa tưởng chừng không dứt

Nỗi đau kéo dài. Nỗi đau rất thực

 

Trăm bàn tay xúm vào cỗ xe lăn

Chầm chậm người ơi. Phía ấy là vĩnh cửu

Chầm chậm thôi. Rồi chẳng còn anh nữa

 

Anh mang đi vết sẹo trên đầu

Cả đôi nạng ba mươi năm gắn bó

Để lại những tấm huân chương neo trong khung gỗ

 

Nguyên lành chăng khi về cõi bên kia

Ai tìm lại cho anh mảnh sọ vương trong cỏ

Bàn chân gãy bạn dùng lê cắt bỏ?

 

Đồng đội nằm kia. Anh lại đội lên đầu ngôi sao đỏ

Trả lại cho đời tấm thẻ thương binh

Đỏ như là máu tự trái tim.

 

Phù Đổng Thiên Vương

  

Ba năm không biết khóc cười

Ba năm không nói nửa lời, lạ chưa?

Ba năm biết mấy nắng mưa

Dấu chân mẹ ướm đồng trưa lớn dần

 

Nếu không vì họa giặc Ân

Chắc chàng Gióng sẽ nông dân suốt đời

Dãi dầu nón lá áo tơi

Lưng trâu ngất ngưởng với lời ca dao

Sẽ mê cô Mận cô Đào

Mé sông đánh dậm, bờ ao buông chài

Bùi củ sắn, ngọt củ khoai

Chiều hôm hái củi sớm mai cuốc cày…

 

Sóc Sơn mây trắng còn bay

Nghìn năm chuyện cũ mà nay bồi hồi

Giặc tan, Nước đã yên rồi

Sao không về tạ một lời Mẹ yêu?

Quê hương khắc khoải sớm chiều

Đồng xưa, Gióng hỡi sáo diều vẫn reo

Đơn côi một mái tranh nghèo

Tre ngà lửa sém quằn queo gió vờn

Mẹ già, cánh võng cô đơn

 Mắt mờ ngó đỉnh Sóc Sơn lệ nhòa.

 “Trời ơi! Đứa trẻ lên ba

Phải roi phải giáp xông pha trận tiền

Con giờ hóa Thánh, hóa Tiên

Hay hồn tử sĩ gió thiêng cuốn rồi?”

 

Nếp đồng đợi thổi thành xôi

Mía ngon thành mật, nụ rồi thành hoa

Gạo cơm, khoai, sắn, dưa, cà

Gom nồi bảy, góp nồi ba đợi chờ

Cô Đào, cô Mận, cô Mơ

Nhớ mong tráng sĩ đến giờ còn mong

Tình quê như ngọn lửa hồng

Mà Người - đền miếu, tượng đồng trơ trơ?

 

Gióng ơi! Cho đến bao giờ

Trở về quá khứ ấu thơ xóm làng

Nhớ mang về lại trần gian

Bao nhiêu tráng sĩ tuổi tràn sức xuân

Bỏ mình vì nước vì dân

Họ tên còn khuyết, mộ phần chửa xây

Quê hương nghĩa nặng tình dày

Trăm ngàn năm vẫn còn đây, đợi Người

 

Hình như ngựa hí lưng trời

Lửa bay - chớp giật

sáng ngời cõi xa…

  Đền Sóc, Xuân 2010 

 

Nơi an nghỉ của Tướng quân

 

 Nơi an nghỉ của Tướng quân

Hoành Sơn sau lưng, biển Đông trước mặt

Có cả triệu  tình dân nâng giấc

Có người lính biên phòng thức gác biên cương

 

Xa phố xa làng nhưng chẳng cô đơn

Hoa vẫn thắm dọc lối mòn lên mộ

Hương vẫn tỏa ngát lừng trong mây gió

Và ngàn thông nức nở nỗi nhớ thương

 

Nghe quốc kêu da diết những năm trường

Thấy nhà nát của kiếp dài nô lệ

Trang lịch sử xót dặm ngàn sông bể

Giã mái trường Thầy giáo hóa Tướng quân

 

Triệu chiến binh từ liềm búa công nông

Dưới quân kỳ bỗng trở thành dũng sĩ

Ba mươi năm thắng Pháp rồi thắng Mỹ

Thắng đố kỵ, hận thù, mọi tham vọng xâm lăng…

 

Quá bách niên Người về cõi vĩnh hằng

Vẫn đột ngột như đất trời sụp xuống

Cả dân tộc nối vòng tay rộng lớn

Hát kết đoàn trong nước mắt thương đau

 

Tự bao giờ và sẽ mãi muôn sau

Người tô thắm trang sử vàng dân tộc

Đại Tướng Quân sẽ muôn đời, bất diệt

Dẫu mộ phần nằm khuất dưới bóng thông.

 

Xưa lên ba, Đời phong Thánh, tôn Ông*

Nay trăm tuổi, Dân: Anh Văn**, trìu mến

Sống: tài, đức dâng đời trọn vẹn

Thác: yên, thiêng một cõi sơn hà.

               Vũng Chùa, 22/10/2013

  *  Phù Đổng Thiên Vương

**;Đại tướng Võ Nguyên Giáp

 

Gặp lại cô gái mở đường

 Tặng Huệ và các nữ TNXP

 

Phải em là cô gái nhỏ

Một thời xẻ dọc Trường Sơn

Một thời lửa bom gian khổ

Vẫn vui khúc hát mở đường.

 

Chiến tranh tàn như khói súng

Chỉ còn trong ký ức thôi

Những con đường xuyên rừng thẳm

Lá cây hẳn lấp kín rồi.

 

Tuổi xuân một phần gửi lại

Bao cơn sốt giữa rừng già

Hành trang cùng em đi mãi

Cuốc cào mái lá đơn sơ.

  

Con đường già rồi lại trẻ

Dưới từng giọt mồ hôi rơi

Bao người trên con đường ấy

Đi vào hạnh phúc tương lai

Chỉ thương mình em vò võ

Nắng mưa mỏi mòn đôi vai

Nửa đêm gặp người trong mộng

Se lòng biết má đào phai.

 

Ơi con đường đi muôn nẻo

Qua bao mùa xuân tuổi xuân

Có biết lòng em hóa đá

Phủ sau bao lớp bụi hồng.

                       5-1992

 

Một thời sao lãng quên

 Kính tặng mẹ Sửu ở ngã ba Suối Hai

 

Những hạt mưa của vùng Ba Vì

Có nhận ra người quen thuở trước

Mà quấn mãi vào từng nhịp bước

Trên đường về tìm mẹ đêm nay.

 

Ánh đèn pin quét lên tường xây

Lối vào xóm gạch ong như "yếm thủng"

Ngàn hạt nước tưởng mắt em khi nũng

Cứ mông lung sóng sánh buổi anh về.

 

Hai mươi năm ngày xốc súng ra đi

Mắt mẹ ướt, mưa Ba Vì trĩu hạt

Con chảy theo dòng quân như giọt nước

Trống giục, cờ bay, khúc hát quân hành.

 

Sơn Tây ơi! Buổi ấy tóc em xanh

Phút đưa tiễn cứ lặng nhìn trách móc

Anh ra đi không một lời hẹn ước

Ngày trở về Vị Thủy chắc bầm mong.

  

Đã qua rồi thời binh lửa xa xăm

Tôi gác súng trở về làm dân dã

Cuộc sống đời thường bao lo toan vất vả

Chưa một lần thăm lại chỗ đóng quân

 

Hai mươi năm biết mẹ có còn không?

Tôi lóng ngóng sờ tay lên chốt cửa

Đêm run rẩy một ngọn đèn trước gió

Tự đáy lòng bật tiếng nấc: Mẹ ơi!

Và bất ngờ - Ôi bà mẹ Sơn Tây

Bỗng gọi đúng tên tôi sau câu hỏi

Ôm chặt tôi mẹ khóc trong đêm tối

"Giờ mới về, con còn sống đó sao?"

 

Tôi còn gì để nói nữa đâu

Nỗi xúc động xen bao điều ân hận

Tôi đã sống giữa lòng dân bất tận

Cả một thời mà sao nỡ lãng quên.

                           Sơn Tây 9-1991

 

 

DÁNG MẸ

  

Con chẳng hình dung ra Mẹ khi dẫn đàn con đạp núi xuống đồng bằng.

Con chẳng hình dung những ngón chân trần lần đầu tiên víu lên mép biển. Mái nhà đông Trường Sơn thì dốc thế kia, lổn nhổn đá tai mèo trắng lòa mặt sóng.

Bàn tay không của người mẹ trẻ, những bàn tay không của đám trai tráng khao khát trưởng thành, từ cheo leo làng bản xuống chài lưới định canh, con ốc con cua bữa đầu thay tôm cá.

Ai trong số những người con của Mẹ trở thành thần Khoai, thần Lúa? Ai đóng cối xay, ai ghép ván lướt thuyền?

Mảnh buồm đầu tiên căng gió ra khơi làm bằng vỏ cây hay bằng phên tre nứa?

Cô gái nào là dâu đầu chị cả biết kết nón quai thao, biết đan áo tơi chằm? Điệu hát đầu tiên ru trẻ dưới đồng bằng có na ná câu then, câu lượn?

Ai cho con tằm ăn lá dâu thay lá sắn để kén thành tơ, tơ thành lụa, mớ ba mớ bảy dập dìu? Vôi bạc, trầu cay, đắng chát hạt cau, ai ghép chúng nên đôi nên lứa?

Cha độc mộc ngược sông Hồng, sông Mã. Mẹ nhớ thương, đâu bến đợi, bến chờ?

Bình minh lên từ những gọng vó bè. Hoàng hôn rớt cuối lửa nương khói rẫy.

 

Cha và Mẹ giã từ hạnh phúc lứa đôi đi tìm miền Đất Hứa, dời núi chuyển non tạo lập đồng bằng. Rất nhiều năm sau, người châu  Âu rẽ sóng dõi trăng, tìm ra châu Mỹ, châu Đại Dương - cũng vẫn từ đam mê chinh phục.

Mẹ là người đàn bà đầu tiên trong cổ tích dựng nước non bằng một bọc trứng Rồng.

Đất nước vững bền tự bốn ngàn năm. Chưa ai tạc nổi dáng hình của       Mẹ. 

 

 

Phần Ba: Bùi Quang Thanh Thơ

 

THƠ VIẾT NHỮNG NĂM

ĐÁNH MỸ (1971 - 1975)

 

 

Đêm sông Mây

 

Con thuyền nhỏ rẽ màn đêm

Cặp vào mép sông lấp loáng

Những ngôi sao tan thành sóng

Lan ra sáng tận bìa rừng

 

Gió sông ướt đẫm sau lưng

Mái chèo lao xao trước mặt

Ấm trầm lòng tôi tiếng hát

“Trường Sơn! Này Trường Sơn ơi...”

 

Mới sáng nay chín tầng trời

Dìu nhau đường lên ngàn bậc

Lương khô khuấy cùng môn thục

Răng hàm gõ nhịp từng cơn

Chiều nay từ trên chon von

Vượn kêu dưới làn sương trắng

Trường Sơn điệp ngàn thăm thẳm

Tai mèo dựng ngược bàn chông

 

Chân chùng.

Gối run

GIốc trơn

Dép tuột quai ngang đầu gối

Tay vin tay tì cong gậy

Đá chuồi vách núi âm âm...

 

Bất ngờ gặp một dòng sông

Bất ngờ ấm trầm tiếng hát

Người giao liên không rõ mặt

Nắm tay đồng hương rung rung

 

Chớp lòe. Mặt sông bom! Bom!

Cậu nào vô duyên đốt thuốc

Khói bom thổi se lồng ngực

Tiếng rít điếu cày vẫn sôi

 

Đồng hương! Này đồng hương ơi

Chia tay. Ta như ngọn gió

Đưa đò. Người về sông Mây

Biết chăng hành trang ra trận

Nặng thêm một bến sông này?

              Nam Lào 12/1971

 

Tình mơ

 

Có phải vô tình tôi gặp em

Đêm hội đầu xuân ngát ánh đèn

Ơi người con gái xinh xinh ấy

Chỉ một thoáng gần như đã quen

 

Phải sợi xuân nồng xe mối duyên

Trớ trêu nên để lại ưu phiền

Hay bởi lòng tôi quen vương vấn

Một chút tơ tình bỗng vừa nhen.

 

Em đến với tôi rất vội vàng

Rồi xa chẳng kịp hỏi tên em

Bởi tôi vô ý, tôi vô ý

Một kẻ đa tình mà hay quên.

 

Đời lính tôi đi súng quàng vai

Ba lô con cóc nặng cong người

Con đường chiến trận trăm ngàn nẻo

Tôi vẫn mơ về đêm Thanh Oai

 

Vẫn thấy rất gần ánh mắt vui

Mái tóc xoăn ngan ngát hoa nhài

Vẫn thấy nụ cười thương thương ấy

Như hôm nào mưa xuân nhẹ rơi

 

Vẫn thấy hình em đứng bên tôi

Những đêm leo núi chạm sao trời

Nghe tiếng em cười trong tiếng suối

Chiều nào mắc võng ngắm mây trôi

 

Đồng đội cười tôi hay mơ màng

Chưa yêu mà đã vội vấn vương

Đôi chàng tinh nghịch còn hay chế

Muốn làm thi sĩ phải học thương.

 

Ai dám bảo rằng tôi chưa yêu

Đồng đội tôi ơi! Chỉ nói liều

Chưa yêu mà đã... sao vương vấn

Mà đã mơ màng hơn cả yêu.

 

Tôi nhớ tôi buồn tôi làm thơ

Tôi trông tôi ngóng đến bao giờ

Hình em như bóng chim tăm cá

Ôi một mối tình trong giấc mơ.

                  Nam Lào 12 -197189

 

Cành hoa bưởi

 (Trích Nhật ký hành quân)

 

Vai mang nặng ba lô

Vượt suối sâu vực thẳm

Giữa Trường Sơn cháy nắng

Mồ hôi tuôn dầm dề

 

Chợt thấp thoáng bờ khe

Một cành hoa bưởi nhỏ

Hương thoảng đưa trong gió

Nhụy vàng điểm xinh xinh

Nụ hoa trắng rung rinh

Như bàn tay vẫy gọi

 

Lặng nhìn hoa không nói

Mà lòng sao bồi hồi

Hoa có biết? Hoa ơi!

Phải mùa xuân đang tới

Trên quê hương xa vợi

Bưởi cũng nở trắng cành

Bên nồi bánh chưng xanh

Mẹ ta đang dõi bóng

Vài cành hoa bưởi trắng

Mấy nhành đào đỏ tươi

Cu Hà đang tươi cười

Cắm vào bình chơi tết

 

Hóa chọn tờ tranh đẹp

Treo lên vách trắng tinh

Hàng câu đối xinh xinh

Trang nghiêm bên ảnh Bác

 

Bao bạn bè quen biết

Đang tha thiết trông chờ

Và... cô bé trong mơ

Thấy anh về xấu hổ

 Cả quê hương thương nhớ

Đang tràn ngập mùa xuân...

 

Trên Trường Sơn mênh mông

Vui cùng mây cùng suối

Ngắt một cành hoa bưởi

Tận hưởng hết hương xuân

 

Hôn cành bưởi quen thân

Mà lòng thầm nhắc nhủ:

Ta đang đi gìn giữ

Cho bưởi trắng thơm hương

Cho quê nhà yêu thương

Bao mùa xuân ấm cúng...

 

Cài hoa lên nòng súng

Ta bước tiếp chặng đường

Hương xuân bay bát ngát

Giữa núi rừng Trường Sơn.

    Nam Lào, Xuân Nhâm Tý 1972

 

 

Đàn T’rưng

 

Tiếng đàn bên suối

âm vang núi rừng

 

Hành quân trưa nắng

áo ướt đầm lưng

Chợt nghe thánh thót

T’rưng... T’rưng...

Tiếng đàn dìu dặt

bay vào không trung

Như tình rừng núi

gửi theo, ngập ngừng.

 

Nắng xiên kẽ lá

muôn sợi tơ vàng

 

Đuốc hồng treo ngược

rực cành Pơ-Lang

 

Suối xanh ríu rít

lọc trong tiếng đàn

 

Bướm vờn rẫy bắp

Hương rừng mênh mang...

 

T’rưng ai đặt

trên đường hành quân

Cho hồn chiến sĩ

trưa nồng bâng khuâng…

        Bắc Kon-Tum 5-197292

 

 

Tâm sự với

những nàng tiên núi

 

Lên đèo dừng lại nghỉ chân

Một đàn mây trắng tần ngần, quẩn quanh

Hỏi nàng tiên của non xanh

Sắc hương bát ngát:

“Cần anh chi nào?”

 

“Ơi anh chiến sĩ qua đèo

Bông hoa trên mũ tai bèo - hoa chi

Mà nghe Gió núi thầm thì

Chê rằng: Mây trắng chẳng bì kịp hoa?”

 

“Bông hoa này - nghĩa quê nhà

Anh mang từ thuở mới xa xóm làng

Đường kim, mũi chỉ, tình thương

Dệt nên màu trắng sắc hương tuyệt vời

Có gì sánh kịp, Mây ơi

Nghĩa tình trong trắng

của người hậu phương?”

    Ngã ba Đông Dương 12/197293

 

 

Đò đêm (1)

 

Cặp môi thì rất gần

Trái tim còn xa lắc

Đêm đợi gì thổn thức

Đèn chờ ai mắt chong?

Thuyền lầm lũi xuôi dòng

Giấc nồng ai đang đến

Chưa ngàn ngày thương mến

Đã mấy lần thiết tha

Người là trăng vời xa

Người là mây đỉnh núi

Thấy mà không với tới

Để cho lòng trống trênh.

Đêm đò dọc trên La Giang

                          3/1974

 

 

Đôi bờ

 

Sông một dòng: hờ hững

Bến cũ đó - người đâu

Nước ơi trôi chi mãi

Cho đôi bờ xa nhau.

      Ngàn Phố, 3/197495

 

 

Nỗi nhớ này

cháu phải viết thành thơ

 Kính viếng hương hồn chú Bùi Quang Lục

 

Đất nước hết giặc rồi chú không trở lại

Mảnh rừng nào chú ngã xuống chú ơi

Ngày ra đi cháu còn nhớ mãi

Bánh pháo giã từ chú đốt dưới mưa rơi.

 

Tiếng pháo nổ giữa ngày xuân năm ấy

Cháu hiểu đâu rằng đang giục chú đi xa

Cánh dù ngụy trang mẹ cài lên lưới mũ

Chú mang theo bao kỷ niệm quê nhà.

 

Những đêm mưa rơi bà nằm không ngủ

Trăn trở nghe từng tiếng xe qua

Đêm mênh mông, cháu biết bà thao thức

Tiếng sấm rền - vọng lại - tiếng bom xa

 

*

Mười bốn năm cả nhà mong tin chú

Mười bốn năm chỉ một lá thư về

Lá thư ấy chú viết chừng vội vã

Nét chữ ngoằn ngoèo như ánh chớp đêm mưa.

 

Lá thư nhỏ có hương rừng hương núi

Mùi mồ hôi thân quen và khói đạn chiến trường

Có nỗi nhớ niềm thương không kịp nói

Có những chiều mây trắng dải Trường Sơn.

Chú không kể về cuộc đời chiến sĩ

Khi làm cánh chim bằng lao giữa bão giông

Chú không kể những ngày đầu đánh Mỹ

Khi thiếu cơm chú phải hái măng rừng

 

Trời Nam ơi mênh mang trong lửa đạn

Ở nơi nào chú vung chớp lưỡi lê

Rừng Quảng Trị, Tây Nguyên hay Nam Bộ

Chú làm cơn gió biếc thổi xuân về?

 

*

Hôm tiễn cháu lên đường, bà không khóc

Ôm cháu vào lòng dặn từng câu:

“Ráng chiến đấu và nhớ tìm tin chú

Chiến thắng rồi bà cháu sẽ gần nhau.”

 

Cháu vào Nam vẫn con đường chú mở

Vẫn đôi dép cao su và vành mũ vải mềm

Vẫn mũi súng thẳng đường chiến dịch

Vẫn ý chí cháy lòng: “Giải phóng miền Nam”.

 

Cháu hành quân trong đội ngũ binh đoàn

Thiết giáp, xe tăng bụi cuốn vàng sắc lá

Mở tấm lương khô, chia nhau hộp cá

Thương chú những ngày rau má, tàu bay.

 

Bãi khách nào cháu cũng tìm những gốc cây

Mong thấy chú một tin gì gửi lại

Ngàn vạn tên người, tên quê khắc trên ấy

Cháu chỉ thấy điệp trùng đội ngũ: Xưa – Nay

 

Trường Sơn ơi! Núi rộng sông dài

Cho ta hỏi: Quãng sông nào chú tắm

Cho ta hỏi: Hỡi nàng mây áo trắng

Đỉnh đèo nào cánh võng chú từng đưa.

 

Chú ở nơi đâu, ơi bát ngát rừng dừa

Xây trận địa dưới muôn tàu lá mảnh

Chú ở nơi đâu - rừng U Minh kiêu hãnh

Và sắc tràm bãi đước mũi Cà Mau?

 

*

Súng nổ dồn, tiếng súng gọi tìm nhau

Hợp điểm muôn đời là hôm nay: Chiến thắng

Lửa rực. Đêm tàn. Bình minh lên, ngập nắng

Tổ quốc khải hoàn, đất nước hóa mùa xuân.

 

Trời quê hương xanh cao mênh mông

Giữa ngày vui bỗng rưng tràn giọt lệ

Từ khóe mắt của trăm ngàn bà mẹ

Nhớ những anh hùng vắng bóng hôm nay.

 

Đại ngàn bao la - gió hãy dừng lay

Bể xanh mênh mông, sóng ơi ngừng vỗ

Phút mặc niệm nghẹn trào bao nỗi nhớ

Về những con người đẹp nhất lòng ta.

 

Chú không còn?

 Đâu phải! Chú đi xa

Chú đi mãi như bao nhiêu đồng chí

Đài dân tộc dựng vòng Hương - Thiên - Lý

Trên Đỉnh Muôn - Đời - Bất - Tử để tiễn đưa

 

Nỗi nhớ này cháu phải viết thành thơ.

                                         5-5-1975

 

 

Ca khúc tháng 5

 

Từ tháng 5 xa xôi

Bác ra đời giữa lòng đất nước

Tiếng võng tre giọng mẹ đầy nước mắt

Tổ quốc ngập chìm trong thương đau.

 

Ôi những tháng năm khản tiếng ve sầu

Như tiếng kêu dưới gót giày xâm lược

Trưa nồng sặc sụa mùi lũ giặc

Bông sen Tháp Mười nghẽn màu trắng trong

Cả ba miền máu chảy thành sông

Đất nước điêu tàn, trái tim người bầm lại

Ngọn lửa căm hờn âm ỉ cháy

Tháng năm ngập ngụa bóng thù.

 

*

Tám mươi năm dồn lại một chiều thu

Dân tộc ta rũ bùn lầy đứng dậy

Vị lãnh tụ sinh tháng 5 năm ấy

Đọc Tuyên ngôn giữa nắng cháy Ba Đình

Bốn ngàn năm đất nước lại hồi sinh

Việt Nam - Hồ Chí Minh

Tổ quốc sáng ngời lá cờ đỏ và ngôi sao vàng năm cánh.

 

**

Kháng chiến 9 năm thần thánh

Những đoàn tàu Nam tiến hối hả hành quân

Chạy suốt thời gian, chạy suốt không gian

Tháng 5 rộn ràng tiếng súng

Tháng 5 ngập tràn chiến thắng

Tháng 5 sinh nhật Bác Hồ

Tháng 5 - rừng Việt Bắc đỏ rợp bóng cờ

Nước Lô giang đen bầm máu giặc

Tháng 5- Pơ lang thắm rừng Tây Nguyên bất khuất

Sen Tháp Mười thơm ngát bài thơ

Tháng 5 lúa chín vàng bờ

Phượng đỏ những mái trường kháng chiến

Chín năm rồi, tháng 5 lại đến

Điện Biên - tin đại thắng vọng về

Giặc Pháp cúi đầu trước mũi lưỡi lê

Trưa tháng 5 nắng về sắc ngọt...

 

***

Đất nước tạm thời chia cắt

Dòng Hiền Lương nén chặt niềm đau

Mây tháng 5 dừng lại đầu cầu

Đăm đắm nhìn về trong nớ

Dãy Trường Sơn chúng toan chia hai nửa

Bằng súng và bằng bom?

 

*

Bộ đội lại hành quân vào Nam

Những cán bộ của chín năm đánh Pháp

Chân chưa mỏi dù đầu hai thứ tóc

Nửa bạc nhớ ruộng vườn - nửa xanh nhớ miền Nam

 

Những chiến sĩ tân binh trẻ măng

Ba lô no tròn nắng

Ngâm thơ Bác giữa chừng trận đánh

Ru võng làm thơ đêm rừng già

Tháng 5 trăng tròn nâng nỗi nhớ bay xa.

 

Hai mốt xuân về đất vẫn nở hoa

Hai mốt năm cả nước là mặt trận

Lời Bác gọi sau mỗi lần chiến thắng

Trên từng chặng đường xác thù đầy vơi

 

“Thần sấm”, “con ma”, “Pháo đài bay”... rơi

Lửa sáng đường xe ra phía trước

Đất hoá chiến công - biển hồng sóng nhạc

Giải phóng miền Nam

 

*

Đã qua rồi những tháng năm gian nan

Cha anh ta nhịn ăn mà đánh giặc

Mũi chông tre chống lại nòng đại bác

Tấm lưng trần cản đường xích xe tang

 

Giữa mùa xuân 1975

Đại quân ta từ bốn bề Tổ quốc

Tiến về Sài Gòn quân đi dậy đất

Những binh đoàn vinh quang

 

Sài Gòn ơi bao năm trời ta nhớ ta thương

Mẹ em ta sống giữa bầy giặc giữ

Lưỡi lê Mỹ xỉa vào từng góc phố

Trời đô thành ngập ngụa cờ ba que

 

Sài Gòn ơi khi mỗi tháng 5 về

Thành phố lại nhắc thầm tên Bác

Thương Sài Gòn hăm mốt năm trời khao khát

Thắng lợi rồi được đón Bác vào thăm

 

Ta về Sài Gòn đầu tháng 5

Khi sen Tháp Mười nở hồng mặt nước

Lưỡi lê ta cắm vào tim lũ giặc

Sài Gòn đỏ rực cờ và hoa...

         Thành phố Hồ Chí Minh

                     15/5/1975104

 

 

Quả đào nhỏ

 

Quả đào nhỏ

em gọt vỏ

 trao anh

Quả đào nhỏ

nửa đỏ

nửa xanh

Anh bỗng thấy ngọt lành

nhìn má em ửng đỏ

 

Ơi quả đào nho nhỏ

Thơm bàn tay em cầm

Ơi màu xanh, màu đỏ

Mà lòng anh bâng khuâng...

 

*

Nhớ một mùa xuân

Sáu năm về trước

Em tiễn anh lên đường đánh giặc

Thẹn thùng chẳng nói trọn câu

Chia tay nhau dưới gốc đào

Lòng bồi hồi tha thiết

Không lời hẹn hò khi tạm biệt

mà vẫn nghĩ: chờ nhau

 

Sáu năm mưa nắng dãi dầu

Hai đứa hai đầu xa lắc

Thư gửi nhau chẳng đứa nào dám viết

một chữ vẫn hằng trông

 

Anh nhớ về dòng sông

nước lam xanh nghiêng mình bên núi đỏ

Nhớ gốc đào có bóng em đứng đó

hôm nào nghiêng nón trông theo

Ơi nụ cười và ánh mắt trong veo

vẫn theo anh

qua núi

qua đèo

qua suốt chiều dài đất nước

Da diết làm sao mỗi sáng hành quân chợt gặp

cánh mai vàng bát ngát của phương Nam

Cành đào ơi

từ miền Bắc yêu thương

càng nhớ em

giữa chiến trường

anh càng chắc súng

 

**

Trăng tròn giữa tháng

Hôm nay chiến thắng anh về

Lúa vàng tràn ngập đồng quê

Má em chín hồng mùa gặt

 

Mẹ mừng rơi nước mắt

Làng xóm đầy ắp tiếng cười

Còn em bao nỗi mừng vui

sao cứ giấu vào vai bạn?

Cành đào hôm đưa tiễn

quả chín mọng trên cành

ngọt ngào

nửa đỏ - nửa xanh...

 

***

Em giục anh ăn

Anh thì mải ngắm

Ơi một quả đào

mà say

mà đắm.

Nửa xanh đằm thắm

Nửa đỏ hồng tươi

Lòng son gửi gắm

biết bao tình người

Quả đào xanh - đỏ

Anh bổ làm đôi

Nghe sao ngọt lịm

Hương gì? Đào ơi!

Trung đoàn 70, tháng 6/1974