Nhà văn - Nhà Báo - Bùi Quang Thanh

TỰ RU MÌNH GIỮA BỘN BỀ ĐA ĐOAN

02:27, 21/12/2021bqtTrong mắt bạn đọc
(0 Đánh giá)
Nhà thơ Trần Kim Hoa

Trần Kim Hoa

NHÀ THƠ BÙI QUANG THANH

 

Tự ru mình giữa bộn bề đa đoan

 

Trên Cánh đồng thời gian, có một người như Ngọn gió, theo Đò dọc - Sông đêm, mà cảm nhận từ chính cuộc đời mình những Hạt đắng, những Mật ong vàng lũng núi… Người ấy là Bùi Quang Thanh, tuổi đôi mươi xông pha khắp Trường Sơn rồi Nam Lào, Tây Nguyên... có một hành trình làm báo tưng bừng, tràn đầy năng lượng trên nhiều vùng miền của đất nước và là một tác giả thơ kiên nhẫn tìm mình với những con chữ hào hiệp để từ đó Tự ru mình giữa bộn bề đa đoan suốt ba thập kỷ qua.

Năm 1994 của thế kỷ trước, Bùi Quang Thanh chính thức công bố tập thơ đầu tiên Một thời sao lãng quên, do Hội VHNT Hà Tĩnh xuất bản. Càng về sau, ông viết càng nhiều càng khỏe, độ ba, bốn năm lại trình làng một tập mới. Tập mới nhất của Bùi Quang Thanh là tập Thơ tuyển chọn (NXB Hội nhà văn, 2020). Trong hành trình thơ bền bỉ ấy, ông từng gặt hái được một số giải thưởng thơ tại quê nhà Hà Tĩnh, của Tạp chí Văn nghệ quân đội… song bộ phận người truy cập vào trang cá nhân buiquangthanh.com để đọc thơ ông mỗi ngày mới thực là giải thưởng lớn nhất dành cho một người làm thơ giữa thời buổi thơ bị lạnh nhạt hôm nay, khi lượng truy cập trang vào một chiều đầu tháng 12 năm 2021 mà người viết này cập nhật, lên tới 14.414.101 lượt, lúc này trên 500 người đang trực tuyến đọc ông.

Thuở áo lính ra trận, thơ Bùi Quang Thanh lưu lại cái nhìn trẻ trung, chân thực về một thời kỳ trận mạc mà ông là người trong cuộc. Thời bình, những ký ức ấy thi thoảng vẫn trở về thao thức trong thơ ông. Đêm sông Mây, những câu thơ được viết bởi một người lính trẻ ngay giữa mặt trận Nam Lào năm 1971, nằm trong ba lô chờ đến ngày hòa bình, chờ đến ngày người thơ Bùi Quang Thanh đến với bạn đọc với tư cách một tác giả thơ, cho thấy rất nhiều điều, không chỉ về những cuộc hành quân gian khổ nơi chiến trường, mà lớn hơn, là sự có mặt của thơ ngay giữa những hoàn cảnh gian nan nhất của chiến tranh: Mới sáng nay chín tầng trời/Dìu nhau đường lên ngàn bậc/Lương khô khuấy cùng môn thục/ Răng hàm gõ nhịp từng cơn/ Chiều nay từ trên chon von/ Vượn kêu dưới làn sương trắng/ Trường Sơn điệp ngàn thăm thẳm/ Tai mèo dựng ngược bàn chông... (Đêm sông Mây);  Cài hoa lên nòng súng/ Ta bước tiếp chặng đường/ Hương xuân bay bát ngát/ Giữa núi rừng Trường Sơn (Cành hoa bưởi).

Đến Tây Nguyên, con mắt thi sĩ khiến người lính trận cảm nhận được thiên nhiên nên thơ một cách trọn vẹn ngay cạnh sự sống và cái chết: Nắng xiên kẽ lá/ muôn sợi tơ vàng/Đuốc hồng treo ngược/ rực cành Pơ-Lang/ Suối xanh ríu rít/ lọc trong tiếng đàn… (Đàn T'rưng).

Nhưng nổi bật nhất, thành công nhất, lay động nhất trong gia tài thơ Bùi Quang Thanh, chính là phần thơ viết về mẹ và quê hương với những câu chữ tải nặng ân tình. Mẹ là nguồn cảm xúc dạt dào gắn với bức tranh quê, gắn với những thi ảnh độc đáo, những liên tưởng thú vị, gây bất ngờ: Nghìn năm vẫn mái tranh quê/ Mẹ tôi tơi lá nón mê chống trời/ “Tháng ba trong nước em ơi”/ Củ khoai tím cả vỏ ngoài ruột trong…/ Mẹ làm cánh vạc mom sông/ Cha buồn như lão Thần Nông mất mùa/ Đói lòng nên mỗi câu ca/ Cũng thơm “rau muống với cà dầm tương (Viết từ những câu ca). Mẹ khiến những câu thơ thổn thức nỗi đau không gì bù đắp nổi: “Mắt Mẹ mờ sau bụi bặm thời gian. Khói thành mây, nắng thành sương, lá vàng rưng rưng vườn cũ/ Nón lá áo tơi treo chùng vách nhớ. Vòi hái cong, lưỡi liềm cong, ngoéo một thuở ruộng đồng; Nghèn nghẹn tiếng “ầu ơ…”, cánh võng không bàn tay hụt hẫng. Cuối vườn thu vơi bay từng sợi nắng, rứt gì lòng Mẹ? Thu ơi … (Lời hương khói).

Hình bóng người mẹ, người bà luôn ám ảnh nhà thơ và trở lại trong nhiều bài thơ khác của ông, quen thuộc đến nỗi như vừa gặp đâu đó, nhỏ bé xót xa giữa mênh mông mưa xối đất trời: Kẽo cà gánh mạ oằn vai/ Toòng teng một cối trầu xay nửa chừng/ Lão trời như cũng còng lưng/ Để mưa xối lệch một vùng đồng sâu… Mẹ là quê hương, mẹ là mái nhà đất nước, là tấm lưng còng hy sinh tận tụy: “Sừng sững tượng đài chiến thắng - Đìu hiu dáng mẹ lưng còng” (Lời hương khói); và bà: Dáng bản đồ Tổ quốc/ Giống bà em ra đồng (Dáng bà).

Mẹ chọn năm sinh tôi - một bài thơ về mẹ, về tôi, nhưng sự thuyết phục của câu chữ ở đây thuộc về những chi tiết cụ thể làm nên sự khái quát trên bức tranh đất nước trong khói lửa chiến tranh bi thương nhưng đầy chất thơ: Tuổi tôi đếm theo từng tên chiến dịch/ Một tuổi: Biên giới/ Hai tuổi: Hòa Bình/ Ba tuổi: Tây Bắc/ Bốn tuổi: Điện Biên/ Dõi chân trời tìm bóng cha bóng chú/ Ráng mây nào từ lửa khói bay lên?

Và quê hương trong nỗi lòng của người con đi xa, chỉ tiếng gàu kéo nước thôi cũng đủ gieo vào tâm trí những tái tê nặng trĩu: Tiếng gàu như kéo đất lên/ Như lôi trời xuống tận miền thẳm sâu/ Trăm ngày chưa giọt mưa ngâu/ Muôn nghìn hạt khát cứa nhàu thịt da (Tiếng gàu)…

Hơi thơ mạnh và phóng khoáng giúp nhà thơ khắc họa bằng thơ một Huyền thoại núi Hồng sừng sững mà không kém phần da diết: Dẫu là sải đến muôn quê/ Chim hồng chim lạc chẳng chê đất nghèo/ Bóng xưa da diết mỗi chiều/ Ráng mây chín đỏ câu Kiều thiết tha/ Dáng xưa gần gũi chan hòa/ Trên lưng mẹ buổi nắng nhòa mưa chan/ Lá tơi xếp cánh đại ngàn/ Chiếc khăn mỏ phượng đoan trang thuở nào/ Mớ ba mớ bảy yếm đào/ Như là đuôi phượng ghim vào thời gian/ Miếng trầu cánh phượng bà têm/ Cay từ nỗi nhớ đêm đêm góp thành/ Hồng Lĩnh đỏ, dòng Lam xanh/ Hiền hòa, chung thủy, đất lành đợi chim... (Trường ca Đò dọc - Sông đêm).

Đồng đội, đồng chí, bạn văn khiến bầu trời thơ Bùi Quang Thanh được mở rộng đến những biên giới không hạn định trong thơ. Ông viết khá nhiều về chủ đề này. Thương người không trở về: Rễ cây thay tóc trên đầu/ Bạn đau mối đốt, mình rầu cỏ ăn (Lời ru đồng đội); nhớ người anh hùng Uông Xuân Lý ở Ngã ba Đồng Lộc: Đồng Lộc/ Nghìn quả bom dội trên lưng/ Nghìn tấm lưng thịt xương giữ/ con đường huyết mạch/ Trời có thể nghiêng trong tiếng bom/ Xe không thể một giờ ùn tắc…, đối thoại với nhà văn Chu Lai: Xắn quần lội về quá khứ/ Gom từng hạt máu thời gian/ Ngọn bút - lưỡi cày dần vẹt/ Tiếp sức tôi với, ơi làng! Hay những câu thơ viết 9 năm sau khi thi sĩ Bùi Giáng rời cõi tạm: Trước Người, có ai như Người không?/Sau này, còn ai như Người không?/ Buồn như rêu và xanh như cỏ/Cỏ trong thơ và cỏ trên đồng… (Nhớ Bùi Giáng), rồi viết về chính mình, khi Văn chương chưa kịp lưng bồ/ Nợ nần chật ba chái bếp…, khi Hạt tình rồi cũng gió bay/ Hạt lộc chia hết - trắng tay: hạt buồn/ Này hạt dại! Này hạt khôn/ Như cánh chuồn chuồn chao đảo thế nhân…/ Phố phường ngửi bụi mà chơi/ Cuối ngày lại ước về nơi quê mùa (Nhân thế) …

Buồn và cô đơn đến mấy (thi sĩ muôn đời vẫn thế), vất vả túng thiếu đến mấy (hoàn cảnh chung của đất nước một thời, không chỉ người làm văn chương chữ nghĩa), thì với Bùi Quang Thanh, đó thực sự chỉ là những thoáng chốc. Cốt cách lãng tử, lởi xởi, tốt bụng, sống vì bạn, vì thơ, luôn nghĩ cho người khác, nụ cười luôn trên môi ngay cả những hoàn cảnh thiếu thuận lợi nhất, qua thời sôi nổi cống hiến tiếp tục mở lòng hướng tới những ân tình của cuộc đời, không so đo hơn thiệt hay bận lòng soi xét bỉ bôi. 

Ngay cả trong những khoảnh khắc người ta dễ hối tiếc nhất, thơ Bùi Quang Thanh vẫn hồn hậu như cách ông đi giữa cuộc đời: Bèo giạt về đâu bèo ơi?/ Hai mươi năm trời bỗng gặp/ Vẫn là chùm hoa tím ngát/ Thiết tha nở giữa ao người. Viết về “Hoàng hôn cô đơn”, buồn đến thế, mà sau rốt câu thơ cất lên vẫn cứ ấm áp: Em chợt đến như một tia nắng ấm/ Ru hồn anh bằng vô số cung đàn; viết về một ngẫu nhiên gặp gỡ, chất đa tình không dấu nổi nhưng câu thơ lại dịu ngọt rất Bùi Quang Thanh: Người về, lòng không về nữa/ Biết từ đây lại khổ rồi/ Biển đó. Và em ở đó/ Lang thang làm gì? Tôi ơi!

Vì vậy mà khi dành thời gian cho trẻ thơ và làm thơ thiếu nhi, nhà thơ như trẻ hóa giữa cuộc đời: Hoa Đồng Tiền đi chợ/ Học bán và học mua/ Hoa Mẫu Đơn giữ chùa/ Xòe tay gầy tập múa/ Hoa Gạo học nhóm lửa/ Làm cháy một góc sân/ Sen, Súng đứng dầm chân/ Dưới bùn sâu tập cấy…(Các loài hoa); Còng lưng bế lũ con thơ/ Phấn rôm theo gió thả hờ tóc nâu/ Nào ngờ tóc biến thành râu/ Trăm ngàn răng sữa mọc sau áo dày/ Đầu con dầu bạc phây phây/ Thương yêu mẹ ẵm đến ngày thân khô…(Cây ngô)

Sau tất cả, Bùi Quang Thanh chọn lựa thơ, chưng cất mình trong thơ, như hạt muối kết từ biển mặn cuộc đời: Bên biển xanh chẳng soi nổi bóng mình/ Trước gương trong không gọi về tuổi trẻ/ Bạc đầu rồi vẫn còn ngơ dại thế/ Cũng mình thôi mà chắc đã là mình (Tự khúc); năm tháng cứ trôi, người thơ cứ thế vịn vào mình mà bước tiếp: Tự ru mình giữa bốn bề đa đoan (Với thơ).

 

Phần thơ chọn: 

 

TỰ KHÚC

 

Bên biển xanh chẳng soi nổi bóng mình

Trước gương trong không gọi về tuổi trẻ

Bạc đầu rồi vẫn còn ngơ dại thế

Cũng mình thôi mà đã chắc là mình

 

Biển thời gian tôi đã bơi qua ba phần:

phần mẹ dìu

phần tự thân

phần số phận

Quãng mẹ dìu gừng cay muối mặn

quãng tự thân đồng đội song hành

quãng số phận ngoái tìm bè bạn

biết bao người thăm thẳm trùng xanh

Quỹ thời gian còn mấy để dành

Như của chùa, tôi đã chi:

cho dại khờ

cho đam mê

cho chiêm nghiệm

Phần dâng hiến rụt rè tính toán

Ngó hầu bao không giấu nổi chút buồn

 

Kịp nghèo rồi đâu đã kịp khôn

Tôi nhá nhẩn hạt thóc rang ký ức

Còn lại quãng đời không quên được

Trên mây đèo Trường Sơn.

 

DÁNG MẸ

 

Con chẳng hình dung ra Mẹ khi dẫn đàn con đạp núi xuống đồng bằng.

Con chẳng hình dung những ngón chân trần lần đầu tiên víu lên mép biển. Mái nhà đông Trường Sơn thì dốc thế kia, lổn nhổn đá tai mèo trắng lòa mặt sóng.

Bàn tay không của người mẹ trẻ, những bàn tay không của đám trai tráng khao khát trưởng thành, từ cheo leo làng bản xuống chài lưới định canh, con ốc con cua bữa đầu thay tôm cá.

Ai trong số những người con của Mẹ trở thành thần Khoai, thần Lúa? Ai đóng cối xay, ai ghép ván lướt thuyền?

Mảnh buồm đầu tiên căng gió ra khơi làm bằng vỏ cây hay bằng phên tre nứa?

Cô gái nào là dâu đầu chị cả biết kết nón quai thao, biết đan áo tơi chằm? Điệu hát đầu tiên ru trẻ dưới đồng bằng có na ná câu then, câu lượn?

Ai cho con tằm ăn lá dâu thay lá sắn để kén thành tơ, tơ thành lụa, mớ ba mớ bảy dập dìu? Vôi bạc, trầu cay, đắng chát hạt cau, ai ghép chúng nên đôi nên lứa?

Cha độc mộc ngược sông Hồng, sông Mã. Mẹ nhớ thương, đâu bến đợi, bến chờ?

Bình minh lên từ những gọng vó bè. Hoàng hôn rớt cuối lửa nương khói rẫy.

Cha và Mẹ giã từ hạnh phúc lứa đôi đi tìm miền Đất Hứa, dời núi chuyển non tạo lập đồng bằng. Rất nhiều năm sau, người châu  Âu rẽ sóng dõi trăng, tìm ra châu Mỹ, châu Đại Dương - cũng vẫn từ đam mê chinh phục.

Mẹ là người đàn bà đầu tiên trong cổ tích dựng nước non bằng một bọc trứng Rồng.

Đất nước vững bền tự bốn ngàn năm. Chưa ai tạc nổi dáng hình của Mẹ. 

 

HỌC CHỮ

 

Gà trống thuộc mỗi chữ O

Thế mà sáng sáng gáy to nhất làng.

Dê con dịch cũng rất xoàng

Bờ... E thì cứ hát tràn "Be... be"

Bác trâu nằm dưới bóng tre

Hếch mồm cười nhạt:

"Ngờ... e... Nghé à!”