Nhà văn - Nhà Báo - Bùi Quang Thanh

XUÔI CÙNG “ ĐÒ DỌC SÔNG ĐÊM”

14:38, 24/02/2021BQTTrong mắt bạn đọc
(0 Đánh giá)
Thật ra là, nếu không thật lòng yêu đắm đuối với quê hương bản quán của mình thì dù sống tại quê hay xa quê, viết về quê vẫn cứ nhạt như thường.

XUÔI CÙNG “ ĐÒ DỌC SÔNG ĐÊM”

                                                                          Văn Giá

        Thật ra là, nếu không thật lòng yêu đắm đuối với quê hương bản quán của mình thì dù sống tại quê hay xa quê, viết về quê vẫn cứ nhạt như thường. Buồn nhất là những người khi đang sống ở quê thì hờ hững, ráo hoảnh, nhưng khi sống xa quê họ lại sắm vai diễn bằng những lời lẽ phần lớn là được nống lên với những  thương cùng nhớ. Rốt cuộc thì họ cũng chẳng đánh lừa  được ai. Chỉ tội cho thơ, trong trường hợp này thơ đã bị biến thành phấn son trang trí, và có thể là tệ hơn thế nữa.

        Bùi Quang Thanh chẳng phải đi đâu hết, anh cứ dầm đời mình vào giữa đồng đất quê hương một cách ngoan ngoãn thật thà, chí tình chí nghiã. Ai có thể bảo thơ Bùi Quang Thanh hay dở thế nào thì chưa biết, chứ không ai có thể nghi ngờ tấm lòng hiếu thảo của thơ anh đối với người với đất quê anh. Một hồn thơ như thế hẳn phải được đền đáp. Bao nhiêu dưỡng chất quê hương đã bồi thấm vào thơ anh, nồng hậu mà kiêu hãnh.

        Tôi đã đọc thơ Bùi Quang Thanh từ rất lâu. Cũng có ý tìm đọc thêm và chờ đợi. Từ tập thơ đầu tay Một thời sao lãng quên (1994) đi qua Hạt đắng (1998) đến tập thơ Đò dọc sông đêm (2001), thơ anh đã đi từ tâm hồn người lính bước ra khỏi chiến tranh với bao vui buồn thế sự, tiếp tục đào thêm vào mạch thế sự của thời đang sống, và đến bây giờ là đào sâu vào mạch nguồn thiêng xứ sở đất quê Lam Giang – Hồng Lĩnh. Nhu cầu khám phá, cắt nghĩa sự sống hôm nay từ nguồn mạch văn hoá truyền thống là một hướng đi chủ đạo của văn học nói chung và thơ ca nói riêng trong những năm này.

        Xuyên suốt cả ba tập thơ và được trở đi trở lại với một tần số cao là hai hình ảnh : Quê và Mẹ. Là hai, mà cũng là một . Như hai vầng trăng cùng soi tỏ, có khi giao nhau, có khi hòa lẫn trong nhau. Mẹ là trung tâm điểm, là kết tinh của quê hương. Quê hương lại là sự mở rộng của cõi Mẹ mà thành. Mẹ và Quê là một nhất thể

        Cứ thử chịu khó làm một phép thống kê những câu thơ viết về mẹ trong thơ Bùi Quang Thanh mà xem, ta sẽ có một số lượng rất đáng kể, vượt trội. Ở tập thơ nào cũng vậy. Trong Đò dọc sông đêm lại càng như vậy. Có khi là tâm trạng ăn năn của người con “tự thú”, rằng có những lúc mình chưa ngoan với mẹ, làm những điều chưa phải lắm với mẹ (Một thời sao lãng quên, Hạt đắng), có khi là một nỗi nhớ thương đối với người Mẹ lam lũ cằn cỗi, lay lắt với thời gian (Tiếng đồng)…. Dáng mẹ gắn chặt đời mình với đất cát, ngọn lúa củ khoai, tảo tần chắt chiu nuôi con khôn lớn. Dáng mẹ lặng thầm, nhẫn nại, chở che,… Hình ảnh người mẹ trong thơ Bùi Quang Thanh chính là người Mẹ Việt Nam ngàn đời trong ca dao, cổ tích. Những vần thơ như thế đọc lên dễ xúc động, vì nó chạm vào chiều sâu của hồn người. Nhưng dần dần, đến tập thơ Đò dọc sông đêm này, Bùi Quang Thanh đã muốn hình ảnh mẹ lên một biểu tượng mang tầm vóc, tư thế của người mẹ xứ sở

Mẹ quê xanh hết dâu triền bãi

Con là tằm điếc chẳng buông tơ

( Với người tiễn bạn về quê)

Hạt máu mẹ thấm vào rừng biên giới

Trong quế thơm? Hoa trẩu trắng lưng trời

( Đêm A Lưới)

Mẹ nhịn nhục nuôi ta thánh tráng sĩ

(Mai Hắc Đế)

        Hình ảnh Người mẹ xứ sở tiêu biểu nhất tập trung ở hai bài: Dáng mẹ và Lời hương khói. Câu thơ được xây dựng trong một thế đối nghịch, là một nỗi đau thấu tận trong lồng ngực : “Nơi mẹ tiễn con đi - nơi mẹ ngóng con về - nơi đồng vọng. Sừng sững tượng đài chiến thắng - đìu hiu dáng mẹ lưng còng” ( Lời hương khói). Cũng cùng trong một kiểu cấu trúc đấy, có thêm :” Mẹ là người đàn bà đầu tiên trong cổ tích dựng nước non bằng một bọc trứng Rồng. Đất nước vững bền tự bốn ngàn năm chưa ai tạc nổi dáng hình của mẹ” ( Dáng mẹ ). Hình ảnh mẹ Âu Cơ xuất hiện thành một vệt suy tư cuả  “Đò dọc sông đêm”.

Viết về người Mẹ xứ sở tức là theo đuổi một tứ thơ lớn. Những bài thơ vừa kể trên của Bùi Quang Thanh mang dáng dấp của một đà bay, bạo dạn mà tin cậy.

        Cũng phải nói ngay, chính ở chỗ này tiềm tàng một dấu hiệu không mong: Nếu quá ham vào suy tưởng, khái quát, sẽ đánh rơi mất những hình ảnh thơ chân thực, gần gũi máu thịt. Người đọc vẫn thèm có mặt những bài thơ, những câu thơ mang hơi hướng sử thi, ví dụ:

Mẹ vẫn mang tới,chân trần lên chợ tỉnh

Cát tháng tư cháy đen màu thính

Rổ khoai lang nắng cháy sém hai đầu  (Trưa hè chợ bể ngang)

Gốc rạ già nua nằm lại

Thảo thơm lan khắp đất trời (Tiếng đồng)

        Tứ thơ lớn phải được mang chở bằng những hình ảnh thơ lắm khi thật bé, thật li ti, chi tiết

       Như ban đầu đã nói, Mẹ và Quê là hai hình ảnh thơ đan lồng, hòa thấm trong nhau, thế nhưng nếu tách ra, vẫn có thể thấy mỗi phía đều có diện mạo riêng. Quê hương trong thơ Bùi Quang Thanh không mang nghiã khái quát như là hình ảnh Đất Nước, mà mang nghĩa xác định – nơi:”chôn rau cắt rốn” của nhà thơ đất Lam Hồng - công dân Bùi Quang Thanh. Vùng đất : “địa linh nhân kiệt” ấy đã ban phước lộc cho hồn thơ Bùi Quang Thanh chút hương hỏa của tiền nhân. Càng về sau, thơ anh càng nhấn mạnh vào mạch nguồn khí thiếng xứ sở. Quê hương không chỉ hiện ra hình sắc bên ngoài mà cả trong chiều sâu văn hiến. Có những vần thơ trong trẻo đáng yêu:

Khi khoai lúa xanh hàng mướt tốt

Bảy chú cò bảy nốt nhạc xuân

Diều ai rắc sáo vào xa lắc

Khúc nhạc đồng quê vút trong ngần  ( Bảy chú cò của tôi)

        Có những vẫn thơ thảo thơm tình nghĩa:

 Phải là lạc cúc anh ơi

Để nguyên vỏ lua, ủ nồi đất nung

Phải là mật mía đất rừng
ửng màu cánh dán nấu chừng se keo

Đũa tre tay khuấy thật đều
lửa than không để ngọn reo đáy nồi
( Qùa quê)

        Đây là một câu thơ trẻ trung tình tứ: Va vào thành giếng lanh canh- Tiếng gàu vẹt cả lòng anh trưa nồng( Tiếng gàu). Kia lại là những câu thơ thật ngậm ngùi: Trông vời nắng lóa nghiã tran g - Bao nhiêu đồng đội xếp hàng vô danhTrường Sơn hai mái xanh xanh – Trăm ngàn vết sẹo ngơ lành, lại đau. (Viết giữa lưng chừng)…

        Dần dần suy cảm thơ anh rọi sâu vào một quê hương nguồn cội với những huyền thoại núi Hồng. Truyền thuyết mẹ Âu Cơ, câu ca dao, điệu dân ca, những Hoa Tiên, Truyện Kiều, thơ Nguyễn Công Trứ… Phần VI của trường ca Đò dọc sông đêm với tựa đề “Viết từ những câu ca” thật đằm thắm, nặng tình, ngụ bao suy tưởng tầm vóc, sâu lắng:

Chắp tay con vái tổ tiên

Ngực trần dám chịu hòn tên hai bề

Cũng vì yêu đât thương quê

Nghĩa nhân ban phát, gom về bão giông

Ăn đầu gió, ngó cuối sông

Giọng trầm âm đục mà lòng thanh cao

        Những câu thơ này là một cách tách dựng chân dung đất và người Hà Tĩnh. Đừng ai bắt bẻ chuyện đúng sai ở đây. Hãy cảm nhận một tấm lòng, một lòng yêu suốt đời ăn chịu với quê hương. Bùi Quang Thanh tự lĩnh lấy cái sứ mệnh tự hát lên giọng điệu hồn vía quê hướng xứ sở Lam Giang - Hồng Lĩnh. Trước điện thờ tâm linh văn  hóa cội nguồn, các bài thơ của Bùi Quang Thanh đều mang một điệu thơ khấn nguyện thiêng liêng, ngào ngạt Hương và Khói.

        Thơ Bùi Quang Thanh rất mạnh ở các chi tiết, hình ảnh chân thực, cụ thể, đi ra từ trường quan sát chân thực của cái cuộc sống bao bọc quanh anh. Anh có khả năng đánh thức và làm lạ hóa nó, đem đến hứng thú cho người đọc. Những câu thơ hay nhất, những bài thơ đạt nhất vẫn nhờ cách cảm thụ cuộc sống và cách biểu đạt chân thực như vậy. Sự sống rót thẳng vào hồn thơ anh những gì gần gũi, mến thương nhất. Sau này cũng có xuất hiện một số bài thơ mang tính suy tưởng, nhưng câu thơ dễ đi vào lòng người nhất không nằm ở các câu triết luận, mà nằm ở các câu tả thực sống động. Ví như viết về vẻ đẹp thanh xuân của một cô gái thôn quê như thế này thật thích:

Môi hạt dưa chưa phải hương vị tết

Đã ríu ran khúc nhạc mùa màng

        Vì là cảm thụ sự sống theo lối trực cảm, trực giác, điều này rất cần cho sự sáng tạo nghệ sĩ - nên thơ cuả Bùi Quang Thanh chan hòa màu sắc tươi tắn ấm áp. Nói theo cách họa sĩ: Bùi Quang Thanh hay chơi màu nguyên, rất ít pha trộn màu. Nhờ vậy, thơ của anh mang giọng tươi sáng, yêu dấu , gắn bó với sự sống, không thiếu những sắc điệu trẻ trung: Gió hoang say khúc tình già- Nghêu ngao như thể biến là của riêng ( Viết ở Đồ Sơn). Anh lấy màu để tả cảnh, lấy màu để biểu hiện tâm trạng, lấy màu để tượng trưng…Trong một bài Lời hương khói thôi đã có : Lá vàng, quả thị vàng, bầu vú xanh gầy, xanh một đốm sao trời, lộc xuân xanh.   ấy là chưa kể những hình ảnh vốn dĩ đã mang màu sắc như: khói bếp, trời mây, đêm hội, tơ tằm, quả dâu, sao năm cánh, vườn thu, mái tóc… Chơi bảng màu nguyên là rất gần gũi với tâm hồn trẻ thơ: hồn nhiên , thành thực. Tuy nhiên nếu không được làm mới chúng sẽ rất dễ khiến người ta nghĩ đến cây - cọ - thơ này có phần nghèo hòa sắc.

        Hồn thơ Bùi Quang Thanh là một hồn thơ quê trọn vẹn. Anh thật mẫn cảm với những gì thuộc về thế giới đồng quê. Thơ anh rất ít bóng dáng của thị thành, nếu có thì cũng chỉ là một ít xa lạ, ngờ vực: Người ta nhẹ gót về phố thị- Để chút xuân quê đứng ngập ngừng. Anh rút sâu vào thế giới đồng quê như một thế giới vô nhiễm, và đồng thời như một thủy lưu văn hóa. Đó chính là con đường đang đi của thơ anh. Và trên con đường này, anh đã cho bạn đọc thưởng ngoạn  một chuyến: “Đò dọc sông đêm” nhiều ấn tượng

Hà Nội, hè 2000

   V.G

          (Nhà văn, PGS Tiến sĩ, Giảng viên Học Viện Chính Tri Quốc Gia)

Từ khóa: BQT