ẤP Ủ NỖI NIỀM
Cái thị xã nhỏ ngày ấy, nghèo nàn và buồn tủi, e ấp bên lề đường 1A, dưới những cặp mắt ơ hờ của khách thập phương. Từ khi nhập tỉnh, những kẻ khôn ngoan hoặc may mắn đã đổ về nơi đô hội, lập nghiệp sinh nghề. Cũng không ít người nổi trôi theo dòng đời.
Mười lăm năm thị xã như bị bỏ quên. Những người có máu mặt trụ lại đây tính được trên đầu ngón tay. Chỉ cần một ngôi nhà vài ba gian xây cất khang trang, chỉ cần một chiếc xe gắn máy bất kể loại gì: Pháp, Nga, Nhật hay Tiệp là cả thị xã này đều biết. Vì vậy vào những ngày đó, hầu hết người già, trẻ nít ở đây đều biết anh - một thương binh trẻ, điển trai làm nghề thầu khoán với chiếc cúp “ Nữ hoang” đỏ chót, bóng lộn. Dĩ nhiên tôi cũng quen anh.
Chia tỉnh, người người lại đổ xô từ thành phố Vinh về đây. Trên những ao hồ hoang vu, những ruộng vườn lầy lội rặt bèo tây và cỏ cú, người ta đào bới, san lấp, chia chác, dựng xây rào chắn thành trăm, thành ngàn biệt thự khang trang. Cái gì cũng đổi thay chóng mặt: Đường chưa kịp hoàn thiện đầu này, đầu kia đã nới rộng kê cao; toà dọc chưa xong, dãy ngang đã mở; ruộng vườn thành đường trục; tên các danh nhân, thi sĩ đội nắng đội mưa thấp thoáng các góc đường... Người đổ về, cơ man như lũ tháng chín, vừa thưa thếch đó đã đầy ăm ắp đó. Những thổ công cũ ít người bươn chải kịp với dòng đời, cứ chìm dần vào trong ồn ã ngược xuôi. Anh cũng “bình thường hoá” giữa cái đô hội lấn chen lúc nào không mấy ai nhớ nữa.
Rồi một ngày tôi chợt nhìn thấy một toà nhà ba tầng nhô lên sau những túp lều tranh, sau luỹ tre làng với cái tên vừa quen vừa lạ: “Nhà khách 27-7”. Từ đường quan nhìn vào, cấu trúc ngôi nhà có vẻ cầu kỳ, trên tầng thượng cảnh trí lạ mắt gây cho tôi sự tò mò và tôi tìm đến chủ nhân căn nhà đồ sộ đó. Thì ra là anh: Chiếc quần soóc lửng màu cỏ úa, chiếc áo đông xuân cộc tay, toạ trên bộ đi văng gỗ lim sáng bóng. Thấy tôi, anh cười:
- Ông nhầm ngõ đấy à?
- Không phải nhầm ngõ mà tôi tìm nhầm người. Tưởng là một bà giám đốc xinh xẻo, hoá ra là ông.
Cơ ngơi của anh có vẻ khá, phòng khách bày biện đơn sơ nhưng toát ra chí so anh so em với những nhà hàng ở thị xã này. Tuy nhiên người phục vụ lại vắng teo. Thấy tôi thac mắc, anh cười :
- Lăn lộn nhiều rồi, mệt mỏi quá. Có bao nhiêu vốn gom vào đây với sự trợ giúp của bà con bạn bè mới được chừng đó. Giám đốc là mình, vợ phó kiêm tất tật chuyện quản lý, nội trợ. Có thêm mấy cháu gái nông nhàn trợ giúp những ngày đông khách.
- Trên bức tường lớn mài ma tít láng bóng màu hồng, một khung nhôm to tướng gắn đầy ảnh quân nhân. Tôi để ý thấy những người lính hầu hết đều đứng tuổi hoạc đã già. Có người không mặc quân phục nhưng trông mặt, biết ngay là cựu binh. Dưới một tấm ảnh ghi: “Các tướng lĩnh và chỉ huy cao cấp từng ở Sư 324B và Trung đoàn 812B về thăm gia đình Dũng sĩ diệt Mỹ Lê Văn Chớ”. Người ghi chú còn viết: “ Từ trái qua phải: Thiếu tướng Minh Long, Đại tá Nguyễn Phi Khương, Trung tá Lê Đăng Toan...” Tôi hỏi anh: “ Biết anh từng là lính đặc công, là cán bộ Tổng đội thanh niên xung phong, là thầu khoán gặp vận. Cách đây mấy tháng, trong một tiệc rượu với mấy tay cựu binh cũng là cánh trinh sát đặc công, một cán bộ xã đã khoe với tôi từng cứu anh thoát khỏi tử thần khi giặc mổ bụng moi gan anh ở Huế hồi Mậu Thân?” “Ai nói với anh?” “Chuyện có thật không? Hắn còn chi tiết là khi vác cái xác của anh chạy, ruột anh trào ra đến hàng mét, vướng cả vào tre gai đứt bốn khúc kia mà” Lê văn Chớ cười: “Tôi có bị thương vào bụng, viên đạn xuyên từ lưng ra phía trước phá một khoảng bụng khá to, ruột trào ra ngoài , đứt mấy khúc, thượng tá Nguyễn Phi Khương là người đã chỉ huy tiểu đoàn 4 đặc công đánh tiếp ứng và cứu tôi đưa về trạm phẫu tiền phương. Sau này anh ấy là Sư trưởng Sư 324B và nghỉ hưu tại phường Bắc Hà. Còn chuyện mổ bụng moi gan là có thật nhưng người bị không phải là tôi mà là anh Phan Công Liêm quê Đức Bình, Đức Thọ.”
- Rót cho tôi ly trà, anh với tay kéo sợi dây nối công tắc chiếc quạt tường trên đầu tôi rồi trầm ngâm: “ Sau Mậu Thân, đơn vị đặc công 812B của chúng tôi tán ra bám sát vùng Quãng Trị và ven Huế. Bọn Mỹ đưa sư đoàn “Kị binh bay” từ Tây Ninh ra Hải Lăng thiết lập cảng trực thăng vận tải tại xã Hải Bá gọi là cảng Mỹ Thuỷ. Toán trinh sát do Phan Công Liêm chỉ huy nhận nhiệm vụ bám địch, theo dõi hướng hành quân, di chuyển, trang thiết bị chiến tranh của chúng. Mọi thông tin anh Liêm nắm được thông qua đài quan sát 105 do toán của tôi chốt giữ để chuyển về trung đoàn. Một chiều tháng 7 năm 1968, xe tăng của địch tuần tra xung quanh khu vực cảng phát hiện được nơi ém của các anh. Chúng cho 36 xe tăng, 5 tiểu đoàn lính Mỹ, hàng chục trận địa pháo quanh đó bắn trợ oai rồi dùng trực thăng thả dây thép gai vây quanh khu vực 3 trinh sát ta ẩn nấp. Pháo dập , tăng gào, vòng vây xiết lại, loa giặc goi hàng không át nổi những loạt AK và lựu đạn của toán trinh sát. Suốt một ngày ròng bọn địch không vào nổi trận địa của các anh, mười tên Mỹ đã bỏ mạng. Đạn hết, hai đồng đội hy sinh, Phan Công Liêm phá hỏng khẩu AK, huỷ tài liệu rồi dùng dao găm đâm cổ mình không chịu để rơi vào tay giặc. Bọn Mỹ tập trung dân đang sơ tán ngoài đồng về đánh đập doạ dẫm mong tìm ra cơ sở nuôi dấu các anh rồi chúng mổ bụng moi gan Phan Công Liêm trước mặt nhân dân xã Hải Bá, sau đó chúng dùng dây buộc xác các anh vào sau xe tăng kéo ra cảng Mỹ Thuỷ”. Tôi nuốt khan nước bọt: “Còn trường hợp anh?” “Đó là đêm 17-5-1970, đại đội 20 đặc công do tôi chỉ huy mật tập trung đoàn hành quân số 54 ngụy trên động Chiêm Dòng phía tây căn cứ 367 Quãng Trị. Tôi dẫn hai trinh sát trẻ - cậu Hợi và cậu Phi – lợi dụng bóng tối bám sát mấy thằng lính ngụy xuống suối xách nước để lén vào vị trí đóng quân của chúng. Chúng xách nước đi trước, tôi bám theo sau, Phi và Hợi gỡ mìn và xoay hướng những quả mìn Clây-mo về phía suối là nơi có bọn nguỵ đang ẩn nấp. Từ trung tâm chúng tôi đánh ra làm hiệu lệnh cho bộ đội ở vòng ngoài công kích. Trận đánh bất ngờ nhưng vì địa hình phức tạp, địch không tập trung nên chiến sự kéo dài gần suốt sáng. Tôi bắn pháo hiệu cho tiểu đoàn bộ binh phối thuộc vào giải quyết chiến trường, bọn tàn quân địch phát hiện được vị trí của tôi vì mấy quả pháo hiệu, chúng nã đạn dữ dội. Phi hy sinh, Hợi bị thương, tôi cũng bị dính đạn hai lần. Nghĩ mình không sống được, tôi lệnh cho Hợi vác xác Phi rút ra ngoài còn mình ở lại cản địch. Tiểu đoàn của anh Khương đã đến kịp khi tôi hết đạn và không còn sức trụ nữa.” Anh kéo tôi vào căn phòng bên cạnh, mở tủ ôm ra bình rượu ngâm thuốc ngả màu nâu sậm: “Dùng được cái này chứ? Rượu nếp làng tôi đó”. “Tôi cũng thích loại côộc toóc nhà mình nhưng tửu lượng kém. Rót ít thôi.”. Cụng ly. Nhấp một hớp, anh thong thả vén tấm áo đông xuân lên khỏi bụng, một miếng sẹo khủng khiếp hiện ra: Vết lõm sâu vào thành cái hố to cỡ bàn tay người lớn, màu da sạm vàng, những vết sâu nhăn nhít trông như cái vỏ cua lật ngửa. Anh kể: “Vết thương quá nặng lại bị nhiễm trùng, ăn uống thiếu chất nên vết khâu không chịu liền miệng phải mổ đi mổ lại. Thuốc gây mê không có, đèn mổ là bóng đèn 6 vôn được thắp sáng bởi cái bình đi-na-mô xe đạp mà các cô hộ lý vừa đạp vừa khóc. Thế mà rồi cũng qua được. Sau này tôi mới biết, trong trận đó, đơn vị tôi xoá sổ trung đoàn 54 ngụy, phân đội tôi hi sinh mất 9 người. Còn tôi, ai cũng nghĩ là không sống nổi nên anh em đào mười cái huyệt. Tôi là cái thằng huyệt đào rồi chưa chôn đấy thôi.”. Anh đưa tôi cuốn sổ bìa dày cỡ hai tệp giấy học trò và một tờ thông báo mời gặp mặt của Ban đại diện Trung đoàn 812B: “Sắp tới, tại đây sẽ tổ chức cuộc gặp đầu tiên của cán bộ, chiến sĩ trung đoàn và một số thân nhân các liệt sĩ của Trung đoàn. Ông Minh Long vừa gửi thư ra, ông ấy yêu cầu tôi đãi đằng anh em bạn hữu một bữa khoai, sắn, rau tàu bay để nhớ lại thời gian khổ đã qua”.
Thành Sen, 1994