Nhà văn - Nhà Báo - Bùi Quang Thanh

PHẦN HAI - Bùi Quang Thanh Thơ

17:57, 14/04/2020BQTThơ
(0 Đánh giá)
LOI HUONG KHOI


PHẦN HAI

LỜI HƯƠNG KHÓI

Hà ơi!

Chén rượu trắng chắc em không biết uống

Khói hương thơm bay hết cả lên trời

Giọt lệ anh rơi vào lòng đất

Có ấm chỗ em nằm? Hà ơi!(*)

 

Mười chị em ngủ hai tám năm trời

Ngàn thông xanh như tóc em mười bảy

Cụm sả ai trồng thơm trong nắng cháy

Thay hương bồ kết bạn anh mong.

 

Tiểu đội dàn hàng hai ngoảnh mặt xuống đường

Hố bom Mỹ chắn ngang sâu xoáy ruột

Chị Tần thương em không cho em đứng trước

Lúc hy sinh - Hà ơi có nguyên lành? 

 

Chẳng hiểu sao mỗi lần anh đến thăm

Hoa cỏ may níu dày hơn một chút

Những hạt ngâu màu buồn không chịu được

Cứ rưng rưng như muốn nói điều gì.

 

Hãy yên lòng bên các chị ngủ đi

Đừng sợ tiếng quạ kêu, đừng sợ bom lại nổ

Màu hoa đỏ cành bông trang bên mộ

Nhắc anh không quên được một thời

Ngã ba này - những mất mát - Hà ơi!

Đồng Lộc, tháng 5/1996 

 --------

(*) Võ Thị Hà: Một trong 10 nữ Liệt sĩ TNXP hy sinh ở Ngã ba Đồng Lộc lúc mới 17 tuổi. 

 

  Hạt đắng 

Mùa lạc ấy ba chum hạt giống

Cả làng không mọc nổi một cây

Mẹ ngơ ngác, những mảnh vườn bạc nắng

Nước mắt rơi lạnh ngón tay gầy

 

Rồi mẹ chẳng bao giờ buôn lạc nữa

Hai mươi năm... mẹ ngờ cả chính mình

Mẹ ngờ cả người thân thiết nhất

Côi cút thân già phải giã nghiệp mưu sinh

 

Con trở về khi không còn mẹ

Cỏ non tơ phủ mái tóc trắng ngần

Ngỡ mắt mẹ sau làn sương khói mỏng

Đau đáu nhìn. Con rối những bước chân

 

Mùa lạc ấy chúng con: ba thằng lính

Chiến trường ra da sốt rét xám vàng

Mẹ đi buôn - cho là không lương thiện

Nên mấy thằng thường trộm lạc đem rang 

 

Những hạt giống ấp trong chum sành đỏ

Phủ lá chuối khô nuôi giữ mầm đời

Những hạt giống trái tim già ấp ủ

Con lỗi lầm để ẩm mốc, mẹ ơi.

 

Chết trong mẹ niềm tin gieo hạt giống

Sống trong con hạt đắng chẳng nguôi tàn

Bao mùa lạc đời vẫn dâng sức sống

Con cúi đầu

 hồn trắng một vành tang.

Hương Sơn 10-1974/ 10-1996 

  

Đối mặt với tử  

(Tặng anh Uông Xuân Lý - AHLLVTND)

  

Khi lưỡi gạt chiếc máy ủi cà vào

vỏ quả bom nổ chậm

Tiếng rít rên như cánh cửa tử thần

Những sợi tóc sau gáy anh đội mồ hôi đứng dậy

Chân ga chùng, tay số bỗng phân vân

 

Nắng Đồng Lộc đỏ

Trời Đồng Lộc trong

Nước mắt mặn trên môi đồng đội

Có trái tim của người con gái

Thắt nghẹn phía sau anh.

 

Đồng Lộc

Nghìn quả bom dội trên lưng

Nghìn tấm lưng thịt xương giữ

 con đường huyết mạch

Trời có thể nghiêng trong tiếng bom

Xe không thể một giờ ùn tắc.

Mặc nỗi sợ dựng lên từng vón tóc

"Nó" đây rồi - bánh xích cứ trườn lên.

Gạt quả bom ra khỏi tim đường

Đẩy thần chết đến ngoài tầm nguy hiểm

Anh xỉu xuống trong tiếng hò thông tuyến

Có cặp mắt vừa khóc vừa cười của cô gái

sát môi anh.

 

 

  Nỗi đau lòng mẹ

 

Nỗi buồn qua cánh võng gai

 Đậu lên mặt mẹ, ngân dài "à ơi"...

 Dẫu cho đi hết cuộc đời

Mẹ ơi ánh mắt chẳng vơi nỗi buồn

 

Có ai níu được hoàng hôn

Có ai sẻ bớt cô đơn cùng Người?

 

Như mông lung cuối chân trời

Các con bé bỏng mải chơi quên về

 

Như nao nao giữa chiều hè

"À ơi"... tiếng mẹ - tiếng ve khản rồi

 

Tay già run rẩy bờ nôi

Nỗi đau lòng mẹ sau thời chiến tranh.

 

 

 Nhớ

 

Em nhỉ, thế là xuân lại đến

Cành đào vườn mẹ đã đơm bông

Nhìn hoa chớm nụ lòng anh nhớ

Cái thuở môi em chúm chím hồng

 

Nhớ mãi xuân nào mưa rây hạt

Ba lô con cóc oẵn lưng thon

Rưng rưng mẹ tiễn ra đầu xóm

Em cười: "Con chống gậy lên non"

 

Giặc tan mẹ tựa mòn lưng cửa

Mấy chục mùa đào đã rơi bông

Mỗi khi về ngắm hoa vườn mẹ

Thương quá môi em chúm chím hồng.

 

 

Đêm pháo hoa trên sông Son

 Tặng các liệt sĩ TNXP ở Phong Nha - Kẻ Bàng

 

Kìa em! Dòng sông Son rực rỡ sắc màu

Màu của cờ hoa, thuyền bè, lễ hội

Anh như con cá mãi bơi - mắt em là lưới

Hãy vớt anh lên trên tất cả hội hè

 

Hãy vớt anh lên trên đỉnh núi có hang Mây

Để anh nhìn xuống dòng Son yêu dấu

Dòng sông hiền hoà, đau thương, nhuốm máu

Một thời, một đời, chịu đựng, cô đơn.

 

Bom địch gào tìm con phà Xuân Sơn

Pháo sáng chập chờn đèo Pu La Nhích

Ngầm Ta Lê áo trắng em làm đích

Cua chữ A vô lăng trẹo tay vần

Vết thương chưa khô đã trốn hang Bảy tầng

Bởi tiếng Tám cô kêu gào thúc giục

Phong Nha ơi! Hang động nào chứa được

Một thời, một đời chịu đựng đau thương?

 

Sao em không mặc quân phục mùa đông

Tha thướt quá bộ áo dài lễ hội

Có lạnh không em? Sông chiều gió núi

Mà má hường như lửa đỏ, cờ bay

 

Mềm lại rồi ư những bàn tay

Bẩy xà beng sạt từng thớ núi

Băm mấy năm rồi làm sao quên nổi...

Anh vẫn ngây ngô như con cá sông này

Cái đêm trời vần vũ mưa, mây

Đường đã thông em trèo lên cửa lái

Nụ hôn vội vàng, giọt mưa hôi hổi

Em thầm thì: "Mau trở lại Phong Nha!"

 

Kìa em! Kìa em! Kìa em... pháo hoa

Vút từ bờ sông vút lên đỉnh núi

Trời Phong Nha - Kẻ Bàng cao vời vợi

Em lẫn vào đâu? Trời thiêng, núi thiêng này.

Em lẫn vào đâu sau xanh mướt rừng cây

Sau động thẳm hang sâu huyền ảo

Sau những cờ, xe, mặt người, sắc áo

Ôi lung linh! Em cao vút tượng đài...

 Đêm lễ hội Di sản PN-KB. 2/2004

 

 

Những căn nhà của mẹ  

Tặng Nhạc sĩ  Thế Hiển 

 

 Những căn nhà con không bao giờ xây nổi

Để chứa cô đơn trái tim mẹ khôn cùng

Mẹ ơi! Mẹ ơi! Con xin làm viên gạch

Chắn gió lùa thay tấm liếp ngày đông

 

Các anh con đi mãi không về

Mẹ là cây tre chẳng thể chờ măng mọc

Mẹ ơi! Mẹ ơi! Con xin làm nốt nhạc

Nâng lời ru tiếng nấc nghẽn mai chiều

 

Những căn nhà chưa gói trọn thương yêu

Lời mẹ dặn: còn trăm nghìn mẹ nữa

Mẹ ơi! Mẹ ơi! Lòng mẹ là giọt lửa

Nung nấu tình con xây tiếp những căn nhà.

  

 

Bên tượng đài 

Anh hùng Phan Đình Giót

 

Anh lầm lũi tìm con cua con cá

Trẩy trái bần chua hói Tùng lót dạ

Rổ sim chiều hái tận miệu Than

Đỡ những tháng ngày đói rét miên man...

 

Nếu không có một mùa thu cách mạng

Cờ đỏ bay - cuộc kháng chiến trường kì

Thế hệ anh và sau này - tôi nữa

Sẽ là gì trong nô lệ, khinh khi?

 

Đoàn Vệ quốc trùng trùng lên Tây Bắc

Vút ngàn xa, chân đi vai vác

Sức vóc nông dân dày dạn đói nghèo

Anh cùng đồng đội vượt cheo leo

 

Tiếng cuốc xẻng đào chiến hào tiếp cận

Ôi hoành tráng những ngày đêm "vây lấn"

Cánh tay các anh siết chặt kẻ thù

Trận quyết chiến này âm hưởng đến thiên thu

 

Khi lồng ngực Anh ấp trùm lên hoả điểm

Súng giặc nghẽn. Đồng đội Anh xông đến...

Tổ quốc bật lên khúc khải hoàn

Tràn ngập đỉnh đồi A1, Him Lam

 

Năm mươi năm - biết bao mùa lúa trổ

Anh vẫn về hái sim cùng lũ trẻ

Hương đồng quê thơm vấn vít tượng đài

Bần hói Tùng hoa đỏ thắm hôm mai

 

Đến thăm Anh, hình như Anh đi vắng

Trong khói hương chiều vàng gió lặng

Chợt âm âm rừng lá bạch đàn:

"Mình bận về Tây Bắc ngắm hoa ban".

Cẩm Quan, 4/5/2004

 

Đêm A Lưới 

  Kính tặng mẹ Vít

Đêm A Lưới trời như chùng thấp

Vài ngôi sao ngơ ngác vén mây rừng

Ngọn gió lạnh từ bờ thông e ấp

Ríu tóc người từng sợi bạc rưng rưng

 

Trăng rắc sữa qua khói sương mờ ảo

Nghĩa trang đêm quạnh quẽ lối hàng

Nghìn đứa con không tên không địa chỉ

Mẹ chia đều mỗi đứa một cây nhang*

 

Những tiếng nấc "Mẹ ơi!" trong gió thoảng

Tượng đài cao run rẩy giọng trăm miền

Nghìn con mắt đỏ mòng đêm thương nhớ

Gió chợt dừng.

Trăng lạnh.

Phút giây thiêng.

 

 Ngày ra đi con là măng là sữa

Giờ con về con là đất là đai

Hạt máu mẹ thấm vào rừng biên giới

Trong quế thơm - hoa trẩu trắng lưng trời

 

Sấp ngửa đồng tiền. Âm dương hòa hợp

Con nằm đây. Con đợi mẹ lâu rồi

Bọc đất nâu như hài nhi khát sữa

Riết vào lòng bật tiếng nấc "à ơi"   

Tháng 4-2000

 

 

Lời ru đồng đội

 

Ngủ đi giấc ngủ ngàn xưa

Lời ru nhè nhẹ. Rừng dừa gió xao

Trập trùng lũng thấp đồi cao

Qua truông có nhớ ngày nào vượt truông

Chẳng còn đạn dập bom dồn

Xin đừng mộng mị cho hồn thảnh thơi

Ngủ đi! Nào, ngủ - à ơi...

Ngọt ngào là tiếng ru hời mẹ xưa

 

Rừng chiều nổi gió tiễn đưa

Nén hương mồ bạn còn chưa kịp về

Bao năm đá gối đất kề

Mưa đông xối cỏ, nắng hè khét xương

Giờ ai hoang lạnh sa trường

Mà ai giã bạn lên đường tìm quê ?

Rừng sâu dây níu bốn bề

Nắng như đôi mắt đỏ kè rưng rưng...

  

Bao năm bóng xế trăng chùng

Bao năm đơn lẻ bạn cùng đất nâu

Rễ cây thay tóc trên đầu

Bạn đau mối đốt, mình rầu cỏ ăn

Hai thằng hai nửa tấm tăng

Vội vàng đồng đội đặt nằm cạnh nhau

Chiến trường chuyển hướng về đâu

Đêm dài dằng dặc rừng sâu hai mồ.

Khói hương hun hút đợi chờ

Lá rơi lấp lối sương mờ chốn mong

Nhặt thưa tiếng súng xa dần

Nín câm đợi tiếng bước chân bạn bè.

 

Ngủ đi! Nào ngủ - Đường về

Cây reo, suối hát, bộn bề lúa thơm

Ríu hồn cọng rạ dây rơm

Mo cau ngày ấy nắm cơm mẹ nghèo...

 

Liêu xiêu bóng đổ lưng đèo

Giật mình thảng tiếng bạn kêu cuối rừng.

  Bình Định, tháng 8/2001 

 

Tản mạn Vĩnh Linh  

 

  I
Hai lăm năm

Chiến trường xưa đã ken đầy cây trái

Ai còn đi tìm ai ngủ quên trong lòng đất chưa về

Anh linh hỡi nhắn lời qua hương khói

Về giữa đội hình dầu chỉ một tấm bia

II.

Chẳng nỡ bới tìm trong thời gian vụn vỡ

Vết sẹo đã khô sao vẫn muối xát lòng

Mẹ gói đau thương đặt vào núm rốn

Đôi mắt mờ lệ đỏ chảy vào trong.

"Bàn chân mẹ từng dẫm lên mảnh bom mảnh đạn

Không thể dầm nữa trong bùn!"

Câu nói khẽ mà như dao chém đá

Tôi nghe từ người chủ tịch Vĩnh Linh

 III.

Hút tầm mắt qua cửa Tùng - biển vời vợi sóng

Trong không trung thấp thoáng những cánh buồm

Em chỉ vệt xa mờ: Cồn Cỏ

Và thì thầm: - Giá anh ở lâu hơn...

Em gái Vĩnh Linh suýt truột mấu đòn triêng

hồi mẹ gánh qua cầu đi sơ tán

Lun cun ra kiếm củi núi Hồng

Đừng trách nữa, nếu một ngày anh trở lại

Em có cùng ra Cồn Cỏ với anh không?

 3-1997

  

 

Lời hương khói

 

 Khúc 1

 Trước khi lẫn vào thinh không khói bếp Mẹ nhen níu mãi vào rơm rạ. Giọt buồn cay xè mái lá. Cao rộng trời mây không gói nổi khôn cùng của kẻ ly hương.

Mắt Mẹ mờ sau bụi bặm thời gian. Khói thành mây, nắng thành sương, lá vàng rưng rưng vườn cũ.

 Nón lá áo tơi treo chùng vách nhớ. Vòi hái cong, lưỡi liềm cong ngoéo một thuở ruộng đồng. 

 Con đi. No tròn ba lô con cóc sau lưng. Hoa cỏ may găm đầy quần bộ binh đũng chấm ngang đầu gối.

 

 Khúc 2

Mỗi quả thị vàng đều mơ thành Cô Tấm: Thảo thơm giặt giũ, bếp núc tương cà, lúng túng đánh rơi hài đêm hội dân ca.

Gốc tre già dãi dầu bão giông, gió mưa quăng quật tơi bời vẫn khát khao mãi là thành lũy.

  Mẹ dâng hiến cho đời những gì mình có. Hạnh phúc được phân thân qua mỗi kỳ sinh nở, hạnh phúc được sẻ chia trong vụn vặt đời thường.

  Đôi vai gầy gánh trăm mùa lúa, xuyên vạn ngày sương, gánh cả thời con gái qua sông. Cha vào Vệ quốc quân, Mẹ chẳng để nhớ thương biến thành Tô Thị.

Mẹ dạy: Chim có tổ, cáo có rừng. Mẹ đếm từng ngày kị ông, giỗ cố. Mẹ mòn lưỡi lừa cá xương bù giọt sữa kiệt khô trong bầu vú xanh gầy. Mẹ ngắm con tằm khôn lớn trên tay mà không dám chờ ngày tằm nhả tơ thành lụa.

  

Khúc 3

 Cơn sốt bất ngờ bắt con nằm lại, đêm lạc rừng khắc khoải tiếng từ quy. Cánh võng “Tô Châu” quây tròn tổ kén ủ con tằm chống những cơn run.

Mấy quả dâu rừng chiều nao đồng đội hái, tê tê đầu lưỡi mềm lại bờ môi; lỗ thủng vô tình trên bọc võng xanh xanh một đốm sao trời. Là mắt Mẹ dõi tìm con chăng Mẹ - giọt mắt khô hút bóng con về, đồng tử tia hình sao năm cánh, chập chờn cơn tỉnh, cơn mê...

Đêm rừng già đơn lạnh. Gió ngàn ru lời Mẹ xa đưa. Đồng đội ơi! Sau giòn giã tiểu liên, trầm hùng đại bác, lộc xuân xanh chồi có khuất nẻo mòn xưa? Và Bình Minh - khi nhịp cầu nối lại, gương mặt Người sẽ rực rỡ nhường bao, đừng dồn hết hào quang soi mắt Mẹ, sau rạng ngời là diệu vợi niềm đau…

Đôi gót trẻ chưa dầm hết chín phương trời đất, chưa thành vai sắt chân đồng trên đôi dép tuột quai. Thằng con Mẹ háu ăn chóng đói, trân trân ngó mãi sao trời...

 

Khúc 4

 Nghèn nghẽn tiếng "ầu ơ...", cánh võng không bàn tay hụt hẫng. Cuối vườn thu vơi bay từng sợi nắng, rứt gì lòng mẹ - Thu ơi! Khói hương thơm đến lạnh người. Ngọn khói: tóc mây - chân hương: nguồn cội. Kẽo kẹt từ vồng tre ấm bụi "tre già măng mọc" mà thương.

Nơi Mẹ tiễn con đi - nơi Mẹ ngóng con về - nơi đồng vọng.

 Sừng sững tượng đài Chiến thắng - đìu hiu dáng Mẹ lưng còng.

Sao con là ráng mây hun hút cuối tầm, là ngọn buốt thổi phơ thêm mái tóc?

Con là khói mây bay giữa trời Tổ quốc, mãi không cùng trong lòng mẹ bao la. 

Thành Sen, cuối năm 1997  

 

 

Tình thư

  Kính viếng Liệt sĩ Võ Thị Tần

  

Chị ngã xuống rồi, tình thư vẫn đi

Như mũi tên của nữ thần Tình yêu

;  tìm về vĩnh cửu

Băng qua muôn nẻo đường máu lửa

Trên vai người giao bưu

Chị ngã xuống rồi, lời tin lời yêu

Chẳng thành trầu cau - thành hòn máu đỏ

Để tình thư gói thương gói nhớ

Lặn lội đi tìm địa chỉ người yêu

Chị xa lắm rồi. Những lớp đất nâu

Cỏ và hoa đan đầy mộ chí

Chỗ ngày xưa bom vùi Mười Chị

Hậu thế xòe hoa những tượng đài

Chỗ ngày xưa chị run nét bút

Thư - thành tài sản của Hôm Nay

Người thiêng nói lời thiêng gửi lại

Bao lời thiêng từ cuộc chiến tranh này

Chuyền tay những người bưu tá

Để thành thông điệp gửi Ngày Mai

Trong đoàn người dâng hương Đồng Lộc

Có ai nhận ra sắc đỏ máu mình?

 

 

 Trước màu mua tím

Kính tặng 13 liệt sĩ A69

 

Anh về cùng gió núi

Muốn ôm ghì từng đóa hoa mua

Những cánh tím mịn màng môi thiếu nữ

Nghênh nghêng đôi sừng tuổi thơ

 

Mười sáu xuân em không kịp ước mơ

Đi không kịp chào

Chết không kịp khóc

Gái trai bên nhau như khúc gỗ rừng nén chôn cảm xúc

Ăn tựa miệng hầm

Ngủ giữa thảm bom

 

Tuổi mười sáu mà vầng trăng chưa tròn

Đã vởn bóng ma “cụp xoè”… ẩn hiện

Vầng trăng nhô lên từ biển

Vầng trăng vụt tắt sau rừng

Gió Lèn Hà trăm năm sau vẫn nấc

Cánh mua rừng màu tím mãi rưng rưng.

 

Đốt nén nhang bên hoa vàng nến đỏ

Mười ba đồng đội của tôi ơi

Cúi lạy những linh hồn đã hóa thành hoa cỏ

Ngưỡng mộ những anh hùng tuổi mười sáu đôi mươi

 

Khói hương chẳng đủ nhiều làm mây trắng

Chiều biên cương mua thăm thẳm kết buồn

Mái hang cũ rêu phong không xanh nổi

Cúi sát đầu dòng lệ thạch trào tuôn

Nỗi ấm ức rợn lên từng vân đá

Dẫu trơ gan trước tuế nguyệt muôn ngàn

Không che nổi những người con trung hiếu

Để bây giờ gió khóc trũm vòm hang.

 

Anh cầm chiếc ống nghe bốn mươi năm còn ấm

Áp vào tai, chợt nghe gió thì thào:

“A69 đây! A lô, nghe rõ”

Tiếng dỗi hờn như vọng tự trời cao. 

Hang Lèn Hà, 02/7/2016

 --------

*Nơi 13 chiến sĩ Bộ đội Thông tin (trong đó có 10 chiến sĩ gái tuổi đời từ 16 - 20) hy sinh ngày 02/7/1972 vì bom đạn Mỹ.

 

 

Tiễn đưa

 

 Đất mở lòng đón anh về với đất

Người đào huyệt chẳng phải phu chuyên nghiệp

Gió trên đồi không còn hú vô tư

 

Quây quần bên anh là mộ ông bà

Nhiều bè bạn, những dòng tên hấp háy

Anh đi từ đây. Anh về phía ấy.

 

Tiếng trống tiễn đưa chọc thủng vòm trời

Bóng người tiễn đưa tưởng chừng không dứt

Nỗi đau kéo dài. Nỗi đau rất thực

 

Trăm bàn tay xúm vào cỗ xe lăn

Chầm chậm người ơi. Phía ấy là vĩnh cửu

Chầm chậm thôi. Rồi chẳng còn anh nữa

 

Anh mang đi vết sẹo trên đầu

Cả đôi nạng ba mươi năm gắn bó

Để lại những tấm huân chương neo

trong khung gỗ

 

Nguyên lành chăng khi về cõi bên kia

Ai tìm lại cho anh mảnh sọ vương trong cỏ

Bàn chân gãy bạn dùng lê cắt bỏ?

 

Đồng đội nằm kia. Anh lại đội lên đầu

ngôi sao đỏ

Trả lại cho đời tấm thẻ thương binh

Đỏ như là máu tự trái tim.

 

  

Phù Đổng Thiên Vương

  

Ba năm không biết khóc cười

Ba năm không nói nửa lời, lạ chưa?

Ba năm biết mấy nắng mưa

Dấu chân mẹ ướm đồng trưa lớn dần

 

Nếu không vì họa giặc Ân

Chắc chàng Gióng sẽ nông dân suốt đời

Dãi dầu nón lá áo tơi

Lưng trâu ngất ngưởng với lời ca dao

Sẽ mê cô Mận cô Đào

Mé sông đánh dậm, bờ ao buông chài

Bùi củ sắn, ngọt củ khoai

Chiều hôm hái củi sớm mai cuốc cày…

 

Sóc Sơn mây trắng còn bay

Nghìn năm chuyện cũ mà nay bồi hồi

Giặc tan, Nước đã yên rồi

Sao không về tạ một lời Mẹ yêu?

Quê hương khắc khoải sớm chiều

Đồng xưa, Gióng hỡi sáo diều vẫn reo

Đơn côi một mái tranh nghèo

Tre ngà lửa sém quằn queo gió vờn

Mẹ già, cánh võng cô đơn

 Mắt mờ ngó đỉnh Sóc Sơn lệ nhòa.

 “Trời ơi! Đứa trẻ lên ba

Phải roi phải giáp xông pha trận tiền

Con giờ hóa Thánh, hóa Tiên

Hay hồn tử sĩ gió thiêng cuốn rồi?”

 

Nếp đồng đợi thổi thành xôi

Mía ngon thành mật, nụ rồi thành hoa

Gạo cơm, khoai, sắn, dưa, cà

Gom nồi bảy, góp nồi ba đợi chờ

Cô Đào, cô Mận, cô Mơ

Nhớ mong tráng sĩ đến giờ còn mong

Tình quê như ngọn lửa hồng

Mà Người - đền miếu, tượng đồng trơ trơ?

 

Gióng ơi! Cho đến bao giờ

Trở về quá khứ ấu thơ xóm làng

Nhớ mang về lại trần gian

Bao nhiêu tráng sĩ tuổi tràn sức xuân

Bỏ mình vì nước vì dân

Họ tên còn khuyết, mộ phần chửa xây

Quê hương nghĩa nặng tình dày

Trăm ngàn năm vẫn còn đây, đợi Người

 

Hình như ngựa hí lưng trời

Lửa bay - chớp giật

sáng ngời cõi xa…

  Đền Sóc, Xuân 2010 

 

  

Nơi an nghỉ của Tướng quân

 

 Nơi an nghỉ của Tướng quân

Hoành Sơn sau lưng, biển Đông trước mặt

Có cả triệu  tình dân nâng giấc

Có người lính biên phòng thức gác biên cương

 

Xa phố xa làng nhưng chẳng cô đơn

Hoa vẫn thắm dọc lối mòn lên mộ

Hương vẫn tỏa ngát lừng trong mây gió

Và ngàn thông nức nở nỗi nhớ thương

 

Nghe quốc kêu da diết những năm trường

Thấy nhà nát của kiếp dài nô lệ

Trang lịch sử xót dặm ngàn sông bể

Giã mái trường Thầy giáo hóa Tướng quân

 

Triệu chiến binh từ liềm búa công nông

Dưới quân kỳ bỗng trở thành dũng sĩ

Ba mươi năm thắng Pháp rồi thắng Mỹ

Thắng đố kỵ, hận thù, mọi tham vọng xâm lăng…

 

Quá bách niên Người về cõi vĩnh hằng

Vẫn đột ngột như đất trời sụp xuống

Cả dân tộc nối vòng tay rộng lớn

Hát kết đoàn trong nước mắt thương đau

 

Tự bao giờ và sẽ mãi muôn sau

Người tô thắm trang sử vàng dân tộc

Đại Tướng Quân sẽ muôn đời, bất diệt

Dẫu mộ phần nằm khuất dưới bóng thông.

 

Xưa lên ba, Đời phong Thánh, tôn Ông*

Nay trăm tuổi, Dân: Anh Văn**, trìu mến

Sống: tài, đức dâng đời trọn vẹn

Thác: yên, thiêng một cõi sơn hà.

  Vũng Chùa, 22/10/2013

  *  Phù Đổng Thiên Vương

**;Đại tướng Võ Nguyên Giáp

 

 

Gặp lại cô gái mở đường

 Tặng Huệ và các nữ TNXP

 

Phải em là cô gái nhỏ

Một thời xẻ dọc Trường Sơn

Một thời lửa bom gian khổ

Vẫn vui khúc hát mở đường.

 

Chiến tranh tàn như khói súng

Chỉ còn trong ký ức thôi

Những con đường xuyên rừng thẳm

Lá cây hẳn lấp kín rồi.

 

Tuổi xuân một phần gửi lại

Bao cơn sốt giữa rừng già

Hành trang cùng em đi mãi

Cuốc cào mái lá đơn sơ.

  

Con đường già rồi lại trẻ

Dưới từng giọt mồ hôi rơi

Bao người trên con đường ấy

Đi vào hạnh phúc tương lai

Chỉ thương mình em vò võ

Nắng mưa mỏi mòn đôi vai

Nửa đêm gặp người trong mộng

Se lòng biết má đào phai.

 

Ơi con đường đi muôn nẻo

Qua bao mùa xuân tuổi xuân

Có biết lòng em hóa đá

Phủ sau bao lớp bụi hồng.

5-1992

 

 

Một thời sao lãng quên

 Kính tặng mẹ Sửu ở ngã ba Suối Hai

 

Những hạt mưa của vùng Ba Vì

Có nhận ra người quen thuở trước

Mà quấn mãi vào từng nhịp bước

Trên đường về tìm mẹ đêm nay.

 

Ánh đèn pin quét lên tường xây

Lối vào xóm gạch ong như "yếm thủng"

Ngàn hạt nước tưởng mắt em khi nũng

Cứ mông lung sóng sánh buổi anh về.

 

Hai mươi năm ngày xốc súng ra đi

Mắt mẹ ướt, mưa Ba Vì trĩu hạt

Con chảy theo dòng quân như giọt nước

Trống giục, cờ bay, khúc hát quân hành.

 

Sơn Tây ơi! Buổi ấy tóc em xanh

Phút đưa tiễn cứ lặng nhìn trách móc

Anh ra đi không một lời hẹn ước

Ngày trở về Vị Thủy chắc bầm mong.

  

Đã qua rồi thời binh lửa xa xăm

Tôi gác súng trở về làm dân dã

Cuộc sống đời thường bao lo toan vất vả

Chưa một lần thăm lại chỗ đóng quân

Hai mươi năm biết mẹ có còn không?

Tôi lóng ngóng sờ tay lên chốt cửa

Đêm run rẩy một ngọn đèn trước gió

Tự đáy lòng bật tiếng nấc: Mẹ ơi!

Và bất ngờ - Ôi bà mẹ Sơn Tây

Bỗng gọi đúng tên tôi sau câu hỏi

Ôm chặt tôi mẹ khóc trong đêm tối

"Giờ mới về, con còn sống đó sao?"

 

Tôi còn gì để nói nữa đâu

Nỗi xúc động xen bao điều ân hận

Tôi đã sống giữa lòng dân bất tận

Cả một thời mà sao nỡ lãng quên.

Sơn Tây 9-1991

 

 

Dáng mẹ

  

Con chẳng hình dung ra Mẹ khi dẫn đàn con đạp núi xuống đồng bằng.

Con chẳng hình dung những ngón chân trần lần đầu tiên víu lên mép biển. Mái nhà đông Trường Sơn thì dốc thế kia, lổn nhổn đá tai mèo trắng lòa mặt sóng.

Bàn tay không của người mẹ trẻ, những bàn tay không của đám trai tráng khao khát trưởng thành, từ cheo leo làng bản xuống chài lưới định canh, con ốc con cua bữa đầu thay tôm cá.

Ai trong số những người con của Mẹ trở thành thần Khoai, thần Lúa? Ai đóng cối xay, ai ghép ván lướt thuyền?

Mảnh buồm đầu tiên căng gió ra khơi làm bằng vỏ cây hay bằng phên tre nứa?

Cô gái nào là dâu đầu chị cả biết kết nón quai thao, biết đan áo tơi chằm? Điệu hát đầu tiên ru trẻ dưới đồng bằng có na ná câu then, câu lượn?

Ai cho con tằm ăn lá dâu thay lá sắn để kén thành tơ, tơ thành lụa, mớ ba mớ bảy dập dìu? Vôi bạc, trầu cay, đắng chát hạt cau, ai ghép chúng nên đôi nên lứa?

Cha độc mộc ngược sông Hồng, sông Mã. Mẹ nhớ thương, đâu bến đợi, bến chờ?

Bình minh lên từ những gọng vó bè. Hoàng hôn rớt cuối lửa nương khói rẫy.

 

Cha và Mẹ giã từ hạnh phúc lứa đôi đi tìm miền Đất Hứa, dời núi chuyển non tạo lập đồng bằng. Rất nhiều năm sau, người châu  Âu rẽ sóng dõi trăng, tìm ra châu Mỹ, châu Đại Dương - cũng vẫn từ đam mê chinh phục.

Mẹ là người đàn bà đầu tiên trong cổ tích dựng nước non bằng một bọc trứng Rồng.

Đất nước vững bền tự bốn ngàn năm. Chưa ai tạc nổi dáng hình của       Mẹ. 

Từ khóa: Thơ BQT