Nhà văn - Nhà Báo - Bùi Quang Thanh

Ca cung đàn người xưa

09:11, 02/06/2011AdminTrong mắt bạn đọc
(0 Đánh giá)
; Phạm Quang Ái
 
   “CA CUNG ĐÀN NGƯỜI XƯA”
 
Đó là câu thơ kết bài thơ “Ghi ở nhà lưu niệm Nguyễn Du” của Bùi Quang Thanh. Kết nhưng không khép, mà mở ra một nỗi buồn mênh mang nhức nhối. Đã thế bài thơ lại được tác giả đưa vào tập thơ “Hạt đắng”(1), một tập hợp những nỗi niềm nhức nhối, những hoài niệm đắng cay của một trái tim buồn cố hữu. Chẳng vậy mà tác giả lại viết đề từ ở trang bìa sau tập thơ “Tôi nhặt lên niềm vui ai đó đã bỏ quên bên đường phố, thả vào chiếc cốc đời. Niềm vui lặn xuống đáy còn nỗi buồn tràn ra ngoài miệng cốc. Niềm vui vay mượn không hề sủi bọt trong tôi”.
Bài thơ gồm 14 dòng và có cấu trúc là lạ. Nếu căn cứ theo tổ chức vần thì có thể chia bài thơ làm bốn khổ: Ba khổ đầu mỗi khổ 4 câu, khổ cuối cùng chỉ có hai câu. Điều độc đáo là tác giả lại tổ chức bài thơ theo liên, cứ hai dòng đi liền kề nhau tạo thành một cặp, cả bài có bảy liên ngũ ngôn gồm hai vế song hành, đăng đối với nhau khá tề chỉnh. Vốn thơ ngũ ngôn dòng ngắn nhưng dễ dài lời, thuận lợi cho việc dùng để kể trong dặm vè. Dùng nó thuần độc bạch trữ tình không khéo dễ con cà con kê. Có lễ tác giả ý thức rõ điều đó, nên đã lựa chọn cách cấu trúc bài thơ theo liên như đã nói trên. Dừng như cố tình mô phỏng cấu tứ, nên phần lớn các liên thơ đều triển khai ý nghĩa theo lối mỡ ra hai cửa, hai lối: hoặc tương phản nghĩa hoặc bổ sung nghĩa cho nhau. Liên thơ mở đầu củng “thường thường bậc trung”.
Cảnh cũ còn lưu lại
Làm bồi hồi mai sau
 
Tuy có vẻ “xôi chè” nhưng nó đã tạo được cái không khí hoài cổ, điếu cổ thương kim. Nó đã gọi về trong tâm hồn người đọc những tiếng thơ u hoài khác của Tố Như:
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư...
( Độc “Tiểu Thanh Ký”)
 
Tưởng mơ ra như thế rồi tác giả sẽ chồi theo cảm hứng chia sẻ với người xưa. Song đến liên thơ thứ hai thì dòng cảm xúc bị chững lại:
Ngàn năm rồi gỗ tốt
Có cần sơn thếp đâu.
 
Phải chăng nhà thơ chỉ chiêm bái danh nhân? Xét về mặt chỉnh thể 4 câu này đã trọn vẹn một ý nghĩa để trở thành một bài thơ ghi vào sổ lưu niệm về thi hào. Nhưng dòng cảm xúc của Quang Thanh lại tràn sang một hướng khác: “Độc thương nhiên nhi thế hạ” (Nghĩ lòng đau mà lệ chảy). Đột biến từ thơ, mạch thơ bắt đầu từ đây:
Gió từ sông vào vườn
   Quẩn quanh trên cành lá
 
Liên thơ tả cảnh duy nhất trong bài thơ. Cảnh được tả rất thực, rất sinh động. Đọc qua ngỡ như chẳng ăn nhập vào mạch trữ tình, chẳng qua chỉ là một thứ trang điểm. Ngẫm nghĩ, mới giật mình. Hình như cái gió này ta đã gặp ở đâu rồi? À, thì ra là những cơn gió âm trong “Truyện Kiều”, là cái “vi âm khí” trong “Văn tế thập loại chúng sinh” và hàng loạt thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Đây là cơn gió thổi từ mộ Đạm Tiên:
... Ào ào đổ lộc rung cây
Ỏ trong dừng có hương bay ít nhiều
Đè chừng ngọn gió lần theo
Dấu dày từng nếp in rêu rành rành...
 
Thổi trong lời trao duyên đau đớn của Kiều:
...Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về...
 
Chính bằng câu thơ tả gió đó, Bùi Quang Thanh đã chuyển dịch ý thơ, giọng thơ: từ trầm tư chiêm bái sang xót xa và cơn gió “Quẩn quanh trên cành lá” đó củng là một thứ âm phong, nghiệp chứng. Tác giả “trúng” ngay cái gió ấy và khôn xiết cảm khái:
  Cái cũ thì hoá đá
Cái mới chưa ai xây.
 
Liên thơ mang nhiều nghĩa. “Cái cũ” là di tích, di sản của danh nhân hay là truyền thống văn hoá dân tộc trong di sản của danh nhân? Tương tự, “Cái mới” là việc tôn tạo di tích danh nhân hay việc xây dựng nền văn hoá mới của dân tộc? Tiếp theo là những câu thơ xát muối vào lòng người đọc:
 
Khói lên trời cứ bay
 Lệ nàng Kiều vẫn nhỏ
 
 Rượu tràn ly ngoài phố
Mồ thi nhân thiếu hoa
 
“Khói bay... rượu tràn” - người đời hoặc vô tình, hờ hững hoặc phởn phơ, hý hửng, sống gấp sống vội, lặn ngụp trong danh lợi.
Đây là những liên thơ đóng vai trò hạt nhân, tích luỹ và phát xạ năng lượng của cả bài thơ. Chỉ tiếc tác giả dùng chữ “thiếu” hơi nhẹ và hẹp nghĩa. Tiền giả định và hàm nghĩa: “thiếu” nghĩa là có nhưng không đủ về số lượng và mang hàm ý trỏ người đời bạc với danh nhân. Theo thiển nghĩa của chúng tôi, dùng chữ “héo” thay cho chữ “thiếu” thì hay hơn, đắt hơn nhiều. Tiền giả định của từ này tuy không nói ít nhiều về số lượng hoa viếng như từ “thiếu” nhưng nó lại nói được cái ý là năm thì mười hoạ mới có hao. Còn hàm ý của từ “héo” thì có thể khá phong phú và sâu sắc: được ít người quan tâm và sự quan tâm đó củng rất hời hợt, hờ hững; hoa “héo” hay là danh nhân héo lòng, tác giả héo gan, héo ruột trước cảnh của đời người thế phũ phàng; hay là do “rượu tràn ly ngoài phố” làm bỏng héo hoa trên mồ thi hào? nếu như tác giả dùng chữ “héo” thì ý thơ mới hô ứng mạch lạc với liên kết bài thơ:
Muôn lá thông nhọn buốt
;  Ca cung đàn người xưa.
Liên kết bài thơ gợi về hình tượng cung đàn bạc mệnh xưa kia nàng Kiều từng “bốn dây như khóc như than”, “bốn dây nhỏ máu như đầu ngón tay” để “khiến người trong (cuộc) cũng tan nát lòng”. Thì nay, cung đàn đó lại được tấu lên với “muôn lá thông nhọn buốt”. Đó là tiếng đàn băng hoại lạnh buốt của thời gian mà người thơ hậu thế hậu tình có thể nghe được khi đứng trước di ảnh của tiền nhân. Đó củng là cái “nhất điểm linh đài” mà Quang Thanh có thể đạt đến trong những bài thơ như thế này.
Xưa nay thơ viết về Nguyễn Du và thế giới nghệ thuật của ông vô cùng phong phú, đặc sắc. Trong kho tàng đó, bài thơ của Bùi Quang Thanh góp một tiếng nói riêng độc đáo và sâu sắc: Nó thực sự là một trong những cái đinh để ghim tập thơ “Hạt đắng” của anh vào lòng bạn đọc.
 
    Can Lộc đêm 25 – 12- 2001
 
Chú thích: Tập thơ “Hạt đắng” của Bùi Quang Thanh do nhà xuất bản Thanh niên ấn hành năm 1997. Giải thưởng Nguyễn Du lần thứ 3.
 
 
   GHI Ở NHÀ LƯU NIỆM NGUYỄN DU
 
Cảnh cũ còn lưu lại
Làm bồi hồi mai sau
 
Ngàn năm rồi gỗ tốt
Có cần sơn thếp đâu.
 
Gió từ sông vào vườn
; Quẩn quanh trên cành lá
 

; Cái cũ thì hoá đá

     Cái mới chưa ai xây.

 
Khói lên trời cứ bay
;   Lệ nàng Kiều vẫn nhỏ;  
 
 Rượu tràn ly ngoài phố
Mồ thi nhân thiếu hoa
 
; Muôn lá thông nhọn buốt
;    Ca cung đàn người xưa.
 ;Tiên Điền, 5/1995
;   BQT