KHÓI HƯƠNG THƠM ĐẾN LẠNH NGƯỜI
; (Nhân đọc tập thơ Mật ong vàng lũng núi của Bùi Quang Thanh)
NGUYỄN HỮU QUÝ
Bùi Quang Thanh từng là lính của thời chống Mỹ. lính sư 10 Quân Giải phóng Tây Nguyên. Anh, nói theo cách nói dân dã là hạt gạo trên sàng được may mắn sống sót qua thời đạn bom khốc liệt và đói rét triền miên. Đồng đội anh biết bao người đã ngã xuống nơi chiến trường gần, chiến trường xa. Chiến tranh vẫn là nỗi ám ảnh đối với những cưu binh đã từng lăn lốc trận mạc như anh. Hơn thế, anh là nhà thơ thì những hồi ức trận mạc thấm đẫm máu và mồ hôi càng thẫm sâu, nhức buốt.
Có mùa thu hòa bình đầy hụt hẫng trong anh, khi trước mắt hiện lên hình ảnh “Sừng sững tượng đài chiến thắng – đìu hiu dáng mẹ lưng còng” (Bài thơ Lời hương khói – giải thưởng Tạp chí VNQĐ 1998 - 1999). Đấy cũng là nỗi buồn chiến tranh không thể khỏa lấp được. Viết được thế là chân thật, là hiểu được giá trị đích thực của chiến thắng. Cái cao lớn, hùng vĩ của tượng đài chiến thắng “đối lập” với cái thấp bé hắt hiu của người mẹ liệt sĩ lưng còng mang nhiều ý nghĩa xã hội sâu sắc. Và câu thơ buồn như lời hương khói cất lên từ nước mắt của thời hậu chiến: “Cuối vườn xưa vơi bay từng sợi nắng, rứt gì lòng mẹ? Thu ơi! Khói hương thơm đến lạnh người. ngọn khói: tóc mây – chân hương: nguồn cội”(LHK).
Trong cuộc chiến, không ai chịu đựng gian nan mất mát nhiều hơn những người mẹ, người vợ. Đất nước Vieeth nam này, sau các cuộc chiến tranh dằng dặc có biết bao người mẹ, người vợ có con, có chồng không trở về. Bởi thế, lời hương khói cũng là lời hỏi xót xa của mẹ: “Sao con là ráng mây hun hút cuối tầm, là ngọn buốt thổi phơ thêm mái tóc?” (LHK). Bùi Quang Thanh có cái nhìn rất sâu và đau vào chiến tranh, cái nhìn ít hào quang rạng rỡ mà nhiều hơn những âm u xiết xoáy: “Đồng đội ơi! Sau giòn giã tiểu liên, trầm hùng đại bác, lộc xuân xanh chồi có khuất nẻo mòn xưa? Và Bình Minh! Khi nhịp cầu nối lại, gương mặt Người sẽ rực rỡ nhường bao. Đừng dồn hết hào quang soi mắt mẹ, sau rạng ngời là diệu vợi niềm đau” (LHK).
Hoài niệm chiến trường là một phần quan trọng trong thơ Bùi Quang Thanh. Với hình tượng người lính hy sinh làm trung tâm, thơ Bùi Quang Thanh đóng góp cho dòng thơ chiến tranh một số tác phẩm chân thật và xúc động. ngoài bài thơ Lời hương khói được giải thưởng Văn nghệ quân đội, anh còn có: “Lời ru đồng đội”, “Hà ơi”, “Đêm A Lưới”, “Đêm pháo hoa sông Son”, “Đêm Thạch Hãn”, “Tình thư”, “Viết giữa lưng chừng”…
Có lẽ chỉ có những người lính trận sau chiến tranh trở về những cánh rừng xưa từng tơi bời bom đạn, sặc mùi chết chóc mới biết ru đồng đội thế này:
Rễ cây thay tóc trên đầu
Bạn đau mối đốt, mình rầu cỏ ăn
Hai thằng hai nửa tấm tăng
Vội vàng đồng đội đặt nằm cạnh nhau
Chiến trường chuyển hướng về đâu
Đêm dài dằng dặc rừng sâu hai mồ
Khói hương hun hút đợi chờ
Lá rơi lấp lối sương mờ chốn mong…
; (Lời ru đồng đội)
Đấy là những câu thơ không nghĩ ra được mà nó được bật từ tâm thức, tâm linh thăm thẳm của trái tim người. Đấy là thơ của cảm xúc, của tâm trạng, của sự từng trải cuộc sống và hoàn cảnh. Những câu thơ được viết bằng máu và nước mắt của đồng đội và của chính mình.
Himhf như có một sự liên tưởng nào đó giữa người chết và người sống. thơ bùi quang Thanh viết về các liệt sĩ gần với lời gọi hồn da diết, nó là những thi khúc buồn đẫm chất bi thương. Có cảm nhận như anh đang chuyện trò với người đã khuất:
Tiểu đội dạn hai hàng ngang ngoảnh mặt xuống đường
Hố bom Mỹ chắn ngang sâu xoáy ruột
Chị Tần thương em không cho em đứng trước
Lúc hy sinh – hà ơi có nguyên lành?
Chẳng hiểu sao mỗi lần anh đến thăm
Hoa cỏ may níu dày hơn một chút
Những hạt ngâu màu buồn không chịu được
Cứ rưng rưng như muốn nói điều gì
; ;(Hà ơi)
Khi viết về liệt sĩ Võ thị Tần, Bùi Quang Thanh lại khai thác ở một góc độ khác: tình yêu. Từ bức thư tình của cô TNXP ở ngã ba Đồng Lộc, anh khái quát thành thông điệp thiêng liêng của cuộc sống. Tình yêu lứa đôi cũng là tình yêu con người, nó sẽ tồn tại vĩnh hằng như quy luật muôn đời, không tàn bạo nào hủy diệt được:
Chị ngã xuống rồi, lời tin lời yêu
Chẳng thành trầu cau, thành hòn máu đỏ
Để tình thư gói thương gói nhớ
Lặn lội đi tìm địa chỉ người yêu
Chị xa lắm rồi, những lớp đất nâu
Cỏ và hoa đan đầy mộ chí
Chỗ ngày xưa bom vùi mười chị
Hậu thế xòe tay những tượng đài…”
(Tình thư)
Và cả những khi bay trên chín tầng mây bạc, dưới đôi cánh chiếc máy bay hành khách giữa thành bình mây trắng trời xanh, trong tâm tưởng nhà thơ không nguôi ngoai ký ức một cuộc chiến tranh đầm đìa máu nóng. Vì vậy nhìn xuống ruộng đồng sông núi mênh mang, anh bỗng giật mình nhận ra;
Trồng vời trắng lóa nghĩa trang
Bao nhiêu đồng đội xếp hàng vô danh
Trường Sơn hai mái xanh xanh
Trăm ngàn vết sẹo ngỡ lành, lại đau.
(Viết giữa lưng chừng)
Bùi Quang thanh không hề cường điệu hóa sự mất mát hy sinh trong những cuộc chiến tranh giải phóng đất nước vừa qua. Từ bắc vào nam, ơ đâu cũng có nghõa trang liệt sĩ, hàng chục ngàn ngôi mộ nằm bên nhau trắng lóa. Vết thương chiến tranh ngỡ đã liền sẹo, mãi còn nhức buốt đớn đau. Nỗi đau ấy không tan trong lòng không chỉ là người mẹ, người vợ có con, có chồng ra trận không về mà nỗi đau thấm sâu vào lòng đất, dưới những nấm mồ, mãi cứa lòng những linh hồn bất tử:
Ngày ra đi con là măng là sữa
Giờ con về con là đất là đai
Giọt máu mẹ thấm vào rừng biên giưới
Trong quế thơm, hoa trẩu trắng lưng trời
Sấp ngửa đồng tiền. Âm dương hòa hợp
Con nằm đây. Con đợi mẹ lâu rồi
Bọc đất nâu như hài nhi khát sữ
Riết vào lòng bật tiếng nấc: “À ơi”
; (Đêm A Lưới)
Chiến tranh qua rồi, vẫn còn một dòng văn học chiến tranh âm thầm chảy. nó tiếp tục dòng chảy của văn học kháng chiến nhưng theo tôi đã được mở ra ở biên độ rộng hơn, chân thật hơn. Sự hy sinh mất mát to lớn, những góc khuất tâm hồn, những hé lộ tâm linh, những bi kịch cuộc đời, cả những lỗi lầm thất bại được miêu tả, phản ánh rõ nét. Bùi quang Thanh là một trong những người cầm bút đau đáu với đề tài chiến tranh và anh đã có những bài thơ xúc động. Theo tôi, anh đã thành công ít nhiều ở mảng đề tài này. Trong tập thơ “Mật ong vàng lũng núi’, mảng đề tài chiến tranh vẫn nặng hơn, cảm xúc và chuyện trong thơ anh là cảm xúc thật, cái tình - cái sự được chắt ra từ cuộc sống, là một phần dĩ vãng bi tráng mà anh đã nếm trải với tư cách là một người lính trân mạc. Thắp lên từ những hoài niệm chiến tranh, thơ Bùi Quang Thanh có lúc như nén hương dâng lên đồng đội đã hy sinh vì độc lập tự do của dân tộc. Niềm tự hào nhiều lúc bị chìm khuất sau nỗi đau chưa vơi cạn của những người mẹ người vợ anh hùng và của những người lính bước ra từ cuộc chiến nên tránh sao được sự ngậm ngùi “khói hương thơm đến lạnh người”.
Nhà số 4 (Lý nam Đế), 4/2007
NHQ