Nhà văn - Nhà Báo - Bùi Quang Thanh

MỘT THỜI XẺ DỌC TRƯỜNG SƠN

01:30, 02/07/2011AdminTruyện - Ký
(0 Đánh giá)
   MỘT THỜI XẺ DỌC TRƯỜNG SƠN
 ;  
;  Đường Hồ Chí Minh, con đường Cách mạng, con đường giải phóng vĩ đại nhất trong lịch sử kháng chiến chống ngoại xâm của dân tộc ta đã đi và huyền thoại, từ không đến có, từ bí mật đến công khai, từ ngắn đến dài, từ đường mòn thành đại lộ. Đường Trường Sơn trong tâm khảm chúng ta là sự hi sinh cống hiến của bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân quốc phòng, của nhân dân các địa phương nơi con có đường đi qua. Và nữa, một lực lượng đáng kể, dù ít được nói đến nhưng không thể nào quên khi nhắc tới sự tồn tại của con đường huyết mạch này: những chiến sỹ dân công hoả tuyến - những người nông dân thực thụ làm nhiệm vụ trọng yếu như những lực lượng chính quy - trong đó có đơn vị chúng tôi - đơn vị có biệt danh “Công trường 10”.
 Con đường chúng tôi đảm trách có tên gọi là đường 10 được mở từ những năm 1963-1964 và còn có tên gọi là “20-7”. Đường 10 bắt đầu trục chính của quốc lộ 15 - phía nam Long Đại (km 0), chạy dọc Đông Trường Sơn vào đường 9. Song song với nó là đường ống dẫn xăng dầu vào Nam. Đây là con đường cắt vĩ tuyến 17, là huyết mạch lớn và chủ yếu cho chiến trường Trị –Thiên. Trên tuyến đường này ta làm chủ toàn bộ và với nó, cách mạng Việt Nam không có giới tuyến, mặc dầu từ Vĩnh Linh trở ra những năm này Mỹ đã tạm ngừng ném bom, còn phía Quảng Trị địch tăng cường bắn phá, phong toả bằng mọi hoả lực có thể sử dụng. Mỹ - ngụy coi đây là trọng huyệt của đường Hồ Chí Minh. Chúng ngửi thấy từ con đường này, lực lượng quân đội, vũ khí và lương thực tăng cường cho mặt trận B5 càng ngày càng đáng sợ nên không tiếc đạn bom đánh phá và không từ một thủ đoạn nào để ngăn chặn, chặt đứt mạch máu này. Từ máy bay siêu hiện đại đến thám báo biệt kích, mìn ríp, mìn lá, mìn vương… cạm bẫy quân thù cài đặt, rình rập khắp nơi.
   Ban chỉ huy công trường, bộ phận chính đóng ở kilômét 21, bộ phận nữa nằm ở kilômét 45 ngay ngã 3 đường 18 đi sang Lào. Thời kỳ này, trụ sở của đồng chí Đồng Sĩ Nguyên - Tư lệnh 559 đóng ở cây số 31, đồng chí Đinh Đức Thiện - Tổng cục trưởng Tổng cục hậu cần đóng ở km 20 để trực tiếp chỉ đạo toàn tuyến Trường Sơn.
   Nhiệm vụ của CT 10: Nâng cấp đường 10 đạt tiêu chuẩn kĩ thuật cấp 4 đồng thời rải đá + nhựa xâm nhập trên toàn tuyến. những nơi có độ dốc lớn hơn 10 độ thì đổ bê tông hoàn thiện ngầm, tràn để bảo đảm xe cơ giới và tăng có thể hành quân được.
   Anh chị em dân công hoả tuyến từ miền Bắc, miền Trung vào đây theo tinh thần tình nguyện phục vụ chiến trường, họ hưởng chế độ nhu yếu phẩm như bộ đội, không lương bổng. Những người nông dân nam có, nữ có, già có, trẻ có vừa thả liềm hái cuốc cày vào tuyến lửa tham gia đảm bảo, xây dựng giao thông. Với sự lao động quên mình của họ, trong năm 1971 đường 10 đẵ được mở rộng và thông xe trên toàn tuyến. Những đoạn đường ngày xưa đi men khe suối thường bị ngập lũ được đưa lên lưng núi, lẩn dưới những tán rừng đại thụ. Những chổ trống thoáng dễ bị máy bay Mỹ phát hiện thì làm giàn nguỵ trang, có đoạn khoét núi xuống rồi đẳn cây rừng đổ ngang để làm sườn cho những giàn nguỵ trang. Hình thức ngụy trang tuỳ theo địa hình, màu sắc của xung quanh mà che cho phù hợp. Có giàn ngụy trang che bằng những dò hoa phong lan xanh mơn mởn , có giàn nguỵ trang che bằng lá cây rừng phủ bụi đất đỏ bầm vì xung quanh toàn hố bom và rừng cháy trụi. Nhờ sự thông minh và sáng tạo vô biên của cán bộ chiến sỹ CT10, cả khi máy bay địch rình mò tìm kiếm giữa ban ngày, xe ta vẫn có thể vận hành làm nhiệm vụ.
   Có lẽ con đường 10 là cung đường đầu tiên trên hành lang Trường Sơn được rải nhựa và lát bê tông. Mặc dù đoạn đường nhựa chỉ vỏn vẹn 14 km từ “Ngã ba Dân Chủ ngoài” vào đến nông trường cao su Lệ Ninh và đường bê tông chỉ có 70m trên đỉnh dốc 32 và một số ngầm của km 21 nhưng đó là những cố gắng phi thường và táo bạo của ta hồi đó. Để rải được chừng ấy đường nhựa, Bộ tư lệnh 559 và Bộ GTVT đưa vào đây khá nhiều phương tiện, thiết bị hiếm hoi như máy ủi, máy lu, máy xúc, máy xay đá, máy nén khí khoan đá, máy phát điện … Dốc 32 có độ dốc lớn hơn 10 độ lại rất dài và cao, về mùa mưa bị ẩm ướt, trơn nhão suốt ngày đêm, xe chở hàng vào Nam qua đây, kể cả “Zin 157” hay “Hồng Hà” ba cầu cũng không vượt qua nổi. Việc bê tông hoá phần đỉnh dốc giải quyết vấn đề thông tuyến ngay cả giữa mùa mưa lũ.
   Cuối năm 1971, Mỹ ném bom trở lại miền Bắc, đường 10 bị đánh phá liên miên với một mật độ rất cao. Ngay từ những ngày đầu tiên của các cuộc oanh tạc, một số lán trại và điểm đóng quân của đơn vị đã bị thiệt hại. Cuộc sống ở đây được dời vào lòng đất sâu hoạc các hang động có sẵn. Công tác xây dựng và bảo vệ đường vẫn được tiến hành khẩn trương quyết liệt cả ngày và đêm. Ngày 20/ 4/1972, doanh trại của đại đội dân công hoả tuyến huyện Thạch Hà (Hà Tĩnh) bị trúng bom, một đồng chí hi sinh, hầm lán bị phá huỷ hết. Đầu tháng 6, Mỹ phóng hoả tiễn trúng kho đạn AT (loại hoả tiển mặt đất ) cạnh doanh trại của đại đội Nghi Xuân. Đạn cháy, nổ bay tứ tung làm 3 người hy sinh. Tháng 7/ 1972 bom Mỹ đánh trúng hầm đồng chí cán bộ tổ chức công trường. Thi thể đồng chí này tan nát. Cũng trong thời gian đó trong khi đi tìm hang cho đại đội Cẩm Xuyên trú ẩn, chúng tôi phát hiện trong một hang đá sâu có 7 bộ xương người chết từ bao giờ. Họ không có một thứ gì còn lại. Có lẽ đó là những đồng chí từng đi mở đường Trường Sơn năm xưa. Chôn cất họ tử tế xong, chúng tôi hương khói xin được ở lại trong hang này.
   Những đơn vị dân công người Hà Tĩnh được cả công trường nể trọng. Họ dũng cảm, xốc vác trong công việc. Họ làm quen với môi trường gian khổ ác liệt rất nhanh. Với 1400 người phân thành 10 đại đội, các đơn vị của Hà Tĩnh chốt giữ hầu hết các nơi xung yếu. Phía nam cầu treo Long Đại là đại đội Cẩm Xuyên, ngã ba đường 18 đi Lào là đại đội Thạch Hà, km 64 do đại đội Kỳ Anh trấn giữ …Văn nghệ khá nhất là đại đội Nghi Xuân. Chẳng biết anh chị em tập tành từ bao giờ mà các điệu múa của họ rất đẹp, họ có thể đội chai nước lên đầu múa lượn mà nước không đổ. Đơn vị cũng được lãnh đạo Bộ tư lệnh 559 và lãnh đạo tỉnh quan tâm chăm sóc thường xuyên. Tỉnh uỷ tặng cho 2 lá cờ: 1 lá mang tên Lý Tự Trọng cho đoàn thanh niên, 1 lá Quốc kỳ để luân lưu cho các đơn vị dẫn đầu từng giai đoạn. Đơn vị Hà Tĩnh còn đựợc nhận lẵng hoa của Bác Tôn tặng cho “đơn vị hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc nhất”.
   Bọn Mỹ rất thâm hiểm, chúng tìm mọi cách phá hoại việc xây dựng con đường chiến lược này. Ngoài bom tấn, bom tạ, bom phá, bom sát thương, hoả tiễn … chúng còn rải mìn lá, mìn vướng trong rừng dọc hành lang. Vô tình dẫm phải mìn, vương phải râu nó là bị ngay. Chúng tôi có sáng kiến gỡ mìn bằng cách dùng dây dù pháo sáng loại nhỏ nối lại, buộc vào một đầu dây một cục sắt vừa nặng tay rồi người ngồi dưới hầm ném cục sắt ra xa về phía có mìn, cuốn dần sợi dây cho cục sắt rà trên mặt đất để râu mìn vướng vào giây nổ. Cách làm này đẵ giúp chúng tôi rà phá được mìn mà đỡ thương vong. Để chống mìn ríp - một loại mìn nhỏ lẫn trong lá cây rừng nếu dẫm lên là nổ mất gót, mất ngón chân - anh chị em lấy lốp ô tô cũ cắt  “Dép Bác Hồ” đế rất dày, có thể giữ an toàn cho đôi chân nếu dẫm phải mìn này.
   Tháng 12 năm 1972, đơn vị CT10 hoàn thành nhiệm vụ xây dựng đường 10. Anh chị em được trở về với quê hương ruộng vườn. Hai năm gắn bó với con đường gian khổ, ác liệt mà vinh quang ấy khắc sâu trong tâm khảm chúng tôi. Chẳng vui sao được khi chính mồ hôi, xương máu của mình đổ ra được đền đáp: Từ con đường này và nhiều con đường khác như đường K, đường 15, đường 20, Quốc lộ 1A … đại quân ta đã làm nên những chiến công oanh liệt ở đường 9 - Nam Lào; ở Quảng Trị; ở Tây Nguyên và trên khắp các nẻo đường này, lực lượng ta đã tràn dâng để có chiến dịch giải phóng miền Nam mùa xuân năm 1975 lịch sử.
   Tổng kết thương vong trong 2 năm, cả đơn vị có 70 đồng chí hy sinh. Những người này đều được truy tặng liệt sỹ. Họ ra đi, người vì bom mìn đạn pháo; người sốt rét, rắn cắn, cây đổ, đá lăn; người bị tai nạn trong lao động, cũng có người hi sinh vì rơi vào nồi nhũ tương khi dập tắt lửa nấu nhựa đường để tránh máy bay địch. Hàng trăm người bị thương và hàng ngàn người bị nhiễm đủ chứng bệnh của vùng rừng thiêng nước độc hoặc do ăn ở thiếu thốn, khí hậu khắc nghiệt; muỗi vắt, dịn mòng … Đặc biệt với những người bị nhiễm bệnh mãn tính do quá trình phục vụ chiến đấu, những người dính chất độc da cam rất thiệt thòi. Bệnh tật đeo đẳng không chịu rời họ nữa nhưng nhiều người trong họ không được hưởng một chế độ gì và chưa ai nghĩ phải có một giải pháp gì giúp họ. Số người bị thương, sau gần 30 năm (1998) nhiều người đã được làm thủ tục để giám định công nhận thương binh nhưng bệnh binh thì chưa có. Mấy năm trước, nhân kỷ niệm 40 năm ngày thành lập đoàn 559, Binh đoàn 12 tặng cho nhiều người trong số họ huy hiệu “Chiến sĩ Trường Sơn”. Huy hiệu “Chiến sĩ Trường Sơn” xứng đáng được đeo lên ngực họ như mốc son một thời oanh liệt.; 
  Bùi Quang Thanh
(ghi theo lơi kể của ông Bùi Quang Vũ)