BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
PHAN THỊ BÍCH HỒNG
Chuyên ngành văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. Biện Minh Điền
NGHỆ AN, 2014
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Đối tượng nghiên cứu và giới hạn của đề tài
3. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
6. Đóng góp và cấu trúc luận văn
Chương 1: THƠ BÙI QUANG THANH TRONG BỐI CẢNH THƠ HÀ TĨNH VÀ THƠ XỨ NGHỆ ĐƯƠNG ĐẠI
1.1. Thơ Hà Tĩnh và thơ xứ Nghệ đương đại
1.1.1. Bức tranh thơ Hà Tĩnh và thơ xứ Nghệ đương đại
1.1.2. Những đặc điểm chính của thơ Hà Tĩnh và thơ xứ Nghệ đương đại
1.1.3. Các tác giả tiêu biểu thơ Hà Tĩnh và thơ xứ Nghệ đương đại
1.2. Bùi Quang Thanh - một gương mặt tiêu biểu của thơ ca xứ Nghệ đương đại
1.2.1. Con đường đến với thơ của Bùi Quang Thanh
1.2.2. Món "nợ" ân tình đối với quê hương xứ sở và hành trình sáng tạo của Bùi Quang Thanh
Chương 2: CẢM HỨNG SÁNG TẠO VÀ HỆ THỐNG HÌNH TƯỢNG TRONG THƠ BÙI QUANG THANH
2.1. Cảm hứng sáng tạo trong thơ Bùi Quang Thanh
2.1.1. Cảm hứng về quê hương, đất nước
2.1.2. Cảm hứng về truyền thống văn hóa - lịch sử
2.1.3. Cảm hứng về chiến tranh và người lính cách mạng
2.1.4. Cảm hứng về mẹ, về người phụ nữ, và về thiếu nhi
2.1.5. Tình yêu và những dăng mắc, duyên nợ tình đời, tình người...
2.2. Hệ thống hình tượng trong thơ Bùi Quang Thanh
2.2.1. Tổng quan về hệ thống hình tượng trong thơ Bùi Quang Thanh
2.2.2. Hệ thống những hình tượng chính yếu, xuyên suốt thơ Bùi Quang ThanhChương 3: PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN CỦA THƠ BÙI QUANG THANH
3.1. Sự lựa chọn bút pháp và thể loại thơ3.1.1. Bút pháp3.1.2. Thể thơ3.2. Nghệ thuật tổ chức giọng điệu và ngôn từ thơ của Bùi Quang Thanh3.2.1. Giọng điệu và nghệ thuật tổ chức giọng điệu thơ của Bùi Quang Thanh3.2.2. Nghệ thuật tổ chức giọng điệu thơ của Bùi Quang Thanh3.2.3. Ngôn ngữ thơ và nghệ thuật tổ chức thơ của Bùi Quang Thanh3.2.4. Nghệ thuật tổ chức câu thơ, bài thơ, tập thơKẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Người Việt Nam rất yêu thơ, đặc biệt là những bài thơ về quê hương mình. Hà Tĩnh cũng không nằm ngoài niềm yêu thích đó. Thơ Hà Tĩnh có đặc sắc riêng, đằm thắm tình quê hương, sâu lắng tình người, tình đời…
Hà Tĩnh nói riêng, xứ Nghệ nói chung là vùng đất nổi tiếng về truyền thống yêu nước, cách mạng và bề dày văn hóa, văn học. Theo dòng chảy thời gian, văn học xứ Nghệ nói chung, Hà Tĩnh nói riêng luôn cắm được những mốc lớn trên tiến trình phát triển của lịch sử văn học dân tộc, từ văn học trung đại đến văn học hiện đại, thời nào cũng để lại dấu ấn quan trọng về tác giả, tác phẩm, về khuynh hướng - văn phái cũng như phong cách sang tạo. Cái gốc của vấn đề là bắt nguồn từ truyền thống văn hóa lâu đời, ở bản lĩnh, cốt cách của người Hà Tĩnh. Trong khó khăn gian khổ con người nơi đây càng được tôi rèn thêm ý chí cần cù chịu khó, kiên cường, sáng tạo, luôn có khát vọng vươn lên chiến thắng thiên tai, địch họa, chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, để lại cho mai sau những giá trị văn hóa, tinh thần cao đẹp.
Hà Tĩnh là quê hương của Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Huy Tự, Lê Hữu Trác... Đến thời hiện đại nhiều thế hệ nhà văn Hà Tĩnh xuất hiện với những tên tuổi sang giá, tiêu biểu như Hoàng Ngọc Phách, Xuân Diệu, Huy Cận, v.v… Đến nay Hà Tĩnh đã có một đội ngũ nhà văn, nhà thơ đông đảo với hàng ngàn tác phẩm có giá trị, góp phần quan trọng vào nền văn học nước nhà. Đây là nguồn dữ liệu, “vật liệu” hết sức quý giá cho các nhà nghiên cứu, phê bình văn học…
1.2. “Hà Tĩnh là đất thơ” (lời Huy Cận). Nối gót tiền nhân, lớp nhà văn, nhà thơ đương đại Hà Tĩnh đã có những nỗ lực lớn trong làm giàu, làm đẹp cho truyền thống văn hóa, văn học của quê hương. Trong số những thi sĩ ấy, có thể kể đến thơ Bùi Quang Thanh...
Bùi Quang Thanh - Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Hà Tĩnh - đã từng có một quá trình sáng tác khá dài, từng có những tập thơ được công chúng độc giả chú ý: Một thời sao lãng quên (1994), Miền tâm tưởng (in chung,1995), Hạt đắng (1998), Đò dọc sông đêm (2002), Ngọn gió dòng sông (2003), Mật ong vàng lũng núi (2007),...
1.3. Thơ Bùi Quang Thanh đã trở nên quen thuộc với người dân Hà Tĩnh, người dân xứ Nghệ, nhất là với những ai đang yêu, đang giữa vòng vây dăng mắc của tình yêu, tình người, tình đời, đang giữa hiện tại mà không nguôi hoài niệm quá khứ, nhớ về cội nguồn, và luôn khát khao, hướng về tương lai…
Không chỉ thế, nhìn rộng ra, trong dòng thơ trữ tình đương đại Việt Nam, và cả ở bộ phận thơ viết cho thiếu nhi, Bùi Quang Thanh cũng cũng thực sự đã ghi được những dấu ấn đẹp, rất đáng trân trọng, tôn vinh…
Rất cần có những công trình tìm hiểu, nghiên cứu thơ Bùi Quang Thanh, từ đây có thể tìm thấy những bài học quý giá cho sáng tạo và tiếp nhận thơ ca...
2. Đối tượng nghiên cứu và giới hạn của đề tài
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Đặc điểm nghệ thuật thơ Bùi Quang Thanh
2.2. Giới hạn của đề tài
Đề tài bao quát toàn bộ thơ Bùi Quang Thanh
Văn bản thơ Bùi Quang Thanh dùng để khảo sát luận văn dựa vào:
- Bùi Quang Thanh, Một thời sao lãng quên, Hội VHNT Hà Tĩnh, 1994.
- Bùi Quang Thanh (in chung), Miền tâm tưởng, Nxb...,1995.
- Bùi Quang Thanh, Hạt đắng, thơ, Nxb Thanh niên, 1998.
- Bùi Quang Thanh, Đò dọc sông đêm, Nxb Hội Nhà văn,2002.
- Bùi Quang Thanh, Ngọn gió dòng sông, Nxb Hội Nhà văn, 2003.
- Bùi Quang Thanh, Mật ong vàng lũng núi, Nxb Hội Nhà văn, 2007.
3. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
3.1. Lịch sử tìm hiểu, nghiên cứu thơ Bùi Quang Thanh.
Việc nghiên cứu về các tác phẩm thơ Bùi Quang Thanh cũng đã có khá nhiều bài viết, bài giới thiệu (hoặc riêng lẻ đăng trên một số tờ báo, hoặc bài phê bình trong một số công trình về văn học xứ Nghệ và Hà Tĩnh). Nhìn chung các bài viết cũng đã phần nào thể hiện cái nhìn đáng trân trọng và có những khám phá, kiến giải về đặc điểm thơ Bùi Quang Thanh trên một số phương diện.
Trong Nhà văn Hà Tĩnh đương đại, các tác giả Hà Quảng - Nguyễn Văn Quang nói về sự tạo hình trong thơ Bùi Quang Thanh: “Những hình tượng thơ đầy tính biểu tượng mà Bùi Quang Thanh quen sử dụng như Dã Tràng, Cuội, Thạch Sanh, ông Đùng tuy quen thuộc nhưng không cũ nhàm mà gợi được những cảm xúc mới mẻ thích thú cho người đọc” [38, 21]. Trong Lược yếu văn học Hà Tĩnh do Hà Quảng chủ biên, Hà Quảng nhận xét về tập thơ Hạt đắng: "Con người Việt Nam hiện đại không cắt đứt quá khứ. Họ tìm ở đấy nhiều bài học. Nhiều tứ thơ liên tưởng đến những huyền thoại xa xưa, đến lịch sử cha ông cũng như chiến tích thời kháng chiến chống Pháp, Mỹ. Trong cảm nhận của mình, Bùi Quang Thanh với tập Hạt đắng tìm thấy trong lịch sử những bài học cho bản thân, những bài học tự răn" [35, 207].
Tác giả Văn Giá trong Xuôi cùng đò dọc sông đêm đánh giá cao hình ảnh Mẹ và Quê trong thơ Bùi Quang Thanh: "Xuyên suốt tập thơ và được trở đi trở lại với tần số cao là hai hình ảnh Mẹ và Quê. Là hai, cũng là một. Như hai vầng trăng sáng cùng tỏ, có khi giao nhau, có khi lại hòa lẫn trong nhau. Mẹ là trung tâm, là kết tinh của quê hương. Quê hương lại là sự mở rộng của cõi mẹ mà thành. Mẹ và Quê là một nhất thể" [12, 1]. Cũng theo Văn Giá, "Hồn thơ Bùi Quang Thanh là một hồn quê trọn vẹn. Anh thật mẫn cảm với những gì thuộc thế giới đồng quê. Thơ anh ít bóng dáng về đô thị, nếu có cũng một chút xa lạ và ngờ vực: Người ta nhẹ gót về phố thị - Để chút xuân quê đứng ngập ngừng. Anh rút sâu vào thế giới đồng quê như một thế giới vô nhiễu và đồng thời như một thủy lưu văn hóa. Đó chính là con đường đang đi của thơ anh và trên con đường này, anh đã cho lữ khách một chuyến Đò dọc sông đêm đây ấn tượng" [12, 1].
Đọc tập thơ Mật ong vàng lũng núi của Bùi Quang Thanh, nhà thơ Vương Trọng đặc biệt chú ý bài thơ văn xuôi Lời hương khói và nhận xét: “Đây là bài thơ văn xuôi đầu tiên của anh, vốn là người quen viết bút ký và phóng sự, anh khéo léo đưa vào những chi tiết rất văn xuôi và cũng nên thơ: Con đi. No tròn ba lô con cóc sau lưng. Hoa cỏ may găm đầy quần bộ binh đũng chấm ngang đầu gối... Bài thơ đã đoạt giải thưởng của Tạp chí Văn nghệ Quân đội, ghi nhận một bước trưởng thành trong "nghề" thơ của anh” [61, 2].
Các bài viết về thơ Bùi Quang Thanh mới chỉ là những cảm nhận, những phê bình mang tính chất giới thiệu. Tuy nhiên, có thể xem đó như là những gợi ý đáng tham khảo. Cho đến nay, vẫn chưa có công trình nào tìm hiểu nghiên cứu thơ Bùi Quang Thanh một cách đầy đủ, hệ thống. Luận văn của chúng tôi là công trình đầu tiên đảm nhận công việc này.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Qua khảo sát, tìm hiểu thơ Bùi Quang Thanh, luận văn nhằm xác định những đặc điểm thơ ông, khẳng định những đóng góp của ông cho thơ Hà Tĩnh nói riêng, thơ Việt Nam hiện đại nói chung; từ đây đề xuất một số vấn đề về việc nghiên cứu và tiếp nhận sáng tác của các nhà thơ, nhà văn "cắm chốt" ở các Hội Văn nghệ địa phương.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.2.1. Đưa ra một cái nhìn chung về thơ Bùi Quang Thanh trong bối cảnh thơ Hà Tĩnh nói riêng và thơ Việt Nam hiện đại nói chung.
4.2.2. Đi sâu khảo sát, phân tích, xác định đặc điểm thơ Bùi Quang Thanh trên phương diện nội dung, cảm hứng.
4.2.3. Đi sâu khảo sát, phân tích, xác định đặc điểm thơ Bùi Quang Thanh trên phương diện phương thức thể hiện.
Cuối cùng rút ra một số kết luận về thơ Bùi Quang Thanh ...
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, trong đó có các phương pháp chính: phương pháp thống kê - phân loại, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp so sánh - loại hình, phương pháp cấu trúc - hệ thống...
6. Đóng góp và cấu trúc luận văn
6.1. Đóng góp
Luận văn là công trình tập trung tìm hiểu thơ Bùi Quang Thanh với cái nhìn hệ thống.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc tìm hiểu và nghiên cứu thơ Bùi Quang Thanh và thơ Hà Tĩnh nói riêng, thơ Việt Nam hiện đại nói chung...
6.2. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương.
Chương 1. Thơ Bùi Quang Thanh trong bối cảnh thơ Hà Tĩnh và thơ xứ Nghệ đương đại.
Chương 2. Cảm hứng sáng tạo và hệ thống hình tượng trong thơ Bùi Quang Thanh
Chương 3. Phương thức thể hiện của thơ Bùi Quang Thanh.
Chương 1
THƠ BÙI QUANG THANH TRONG BỐI CẢNH
THƠ HÀ TĨNH VÀ THƠ XỨ NGHỆ ĐƯƠNG ĐẠI
1.1. Thơ Hà Tĩnh và thơ xứ Nghệ đương đại
1.1.1. Bức tranh thơ Hà Tĩnh và thơ xứ Nghệ đương đại
Hà Tĩnh là đất văn vật, nổi tiếng vì nhiều người đỗ đạt nhưng nổi bật hơn là cốt cách con người xứ Nghệ. Đây là mảnh đất giàu truyền thống thi ca, có nhiều cây đại thụ tỏa bóng mát qua nhiều thế kỷ. Nối tiếp truyền thống của những thế kỷ trước, thế kỷ hai mươi, Hà Tĩnh vẫn đóng góp cho thi đàn dân tộc nhiều tên tuổi: Xuân Diệu, Huy Cận, Chính Hữu, Phạm Ngọc Cảnh, Xuân Hoài, Ngô Thế Oanh, Cẩm Lai, Hồ Minh Hà, Hoàng Thị Minh Khanh và sau này: Lê Thành Nghị, Dương Kỳ Anh, Mai Hồng Niên, Nguyễn Ngọc Phú, Duy Thảo, Lê Quốc Hán, Bùi Quang Thanh, Tùng Bách...
Các tác giả Hà Tĩnh cũng đóng góp cho thơ ca hiện đại Việt Nam nhiều tác phẩm đỉnh cao và ít nhiều trong số tác phẩm thành công đã tạo nét riêng cho dòng thơ xứ Nghệ. Các nhà thơ xứ Nghệ là những cây bút cự phách trong các thể loại lục bát, năm chữ, thơ tứ tuyệt, thơ tự do... có mặt hầu hết trong các tuyển thơ trong Nam cũng như ngoài Bắc.
Với một đội ngũ đông đảo như vậy, thơ Hà Tĩnh đã hòa nhịp được với nền thơ cả nước. Bắt rễ trên vùng đất văn vật giàu truyền thống văn hóa, thơ Hà Tĩnh thời gian qua vừa tiếp nối rất tự nhiên nguồn mạch truyền thống, vừa có những cách tân theo hướng hiện đại. Nếu những năm đầu sau ngày thống nhất đất nước, thơ còn mang lối mòn quen thuộc mà biểu hiện rõ nhất là cảm hứng sử thi còn rất đậm, thì về sau, đặc biệt là thời kỳ đổi mới, thơ đã phát triển theo chiều hướng ngày càng phong phú. Điều đáng mừng là thơ đã trở về với tiếng nói riêng tư, thầm kín nhất của mình. Ý thức cá nhân của chủ thể sáng tạo đã được đề cao. Nó mở ra cho thơ hướng phát triển đúng đắn, phù hợp với đặc trưng thể loại. Nếu trước đây, trữ tình chính trị, trữ tình công dân giữ vị trí độc tôn, thì giờ đây bên những cảm xúc ấy, trữ tình riêng tư đã có chỗ đứng xứng đáng trong thơ.
Nhớ những năm sáu mươi, cùng với những khuôn mặt thơ như Bằng Việt, Lưu Quang Vũ, Vũ Quần Phương, rồi sau đó Phạm Tiến Duật, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Khoa Điềm,Trần Đăng Khoa, Hà Tĩnh có Xuân Hoài, Lê Duy Phương, Duy Thảo, Minh Nho với những bài thơ sống mãi trong lòng bạn đọc (Những ngôi sao, Nơi giấu xe, Mừng chiến thắng trời quê, Bài học từ Hương Phúc). Thời đó, các tác giả Hà Tĩnh được đón chào đón rất nồng nhiệt. "Thuộc thơ các anh lúc bấy giờ như là một biểu hiện của trình độ văn hóa. Các anh lúc bấy giờ không có điều kiện để gọt rũa chăm chút câu chữ, nhưng thơ các anh vẫn mới mẻ và có giọng điệu riêng, khó nhầm lẫn. Phải chăng nhờ vào một nền tảng văn hóa tích lũy cổ kim Đông Tây bao nhiêu năm trên ghế nhà trường, cộng với một vốn sống phong phú, một tình cảm mãnh liệt, nên lúc sáng tạo nó cứ trào ra tự nhiên, vừa dân tộc mà cũng rất hiện đại" [35, 17].
Hiện nay các cây bút thế hệ đổi mới cũng đang trên đường tìm tòi tự khẳng định. Ở thơ, các cây bút mới không đơn điệu, họ đã thể hiện bước đầu sự đa dạng của cá tính, của sự nỗ lực không lặp lại người đi trước. Lê Quốc Hán với tập Lời khấn nguyện mang âm hưởng vừa cổ kính vừa chân quê, một chút Đường thi lãng đãng pha một chút sương mờ ca dao miền Trung, Bùi Minh Huệ khai thác những kỷ niệm một thời đầy vấp ngã, những ký ức "cay đắng ngọt ngào" cũng có thể giúp Cho em lớn khôn. Nguyễn Trọng Bính khỏe khoắn, trung thực, thơ ông dồi dào sinh lực như chính cuộc đời binh nghiệp của ông vậy, Dương Thế Vinh đa cảm, khá thành công trong mảng thơ nhà trường. Hải Hà tinh tế mà tự nhiên, vươn lên trên những toan tính nghề nghiệp, giữ một hồn thơ trong trẻo theo ngày tháng. Ngọc Vượng luôn tìm tòi cả về ngôn ngữ lẫn ý, tình. Tùng Bách vui, hóm hỉnh nhưng tinh tế và sâu lắng. Bùi Quang Thanh, khỏe khoắn mà say đắm. Lê Duy Văn thành công nhiều ở những bài thơ kỷ niệm lính, tình thơ đậm đà, lời thơ giản dị sâu lắng, hơi có chút ngang tàng. Nguyễn Ngọc Phú, cây thơ tràn đầy sinh lực, thơ ông mang hương vị riêng của một miền quê biển ngập tràn sóng gió, hình thức tân kỳ, ngôn ngữ sống động. Thái Vĩnh Linh, một cây bút sung sức trên cả hai mảng thơ người lớn cũng như thơ trẻ em, cảm xúc phong phú, ngôn ngữ sinh động đôi khi có những tứ lạ, đưa đến cho thơ Hà Tĩnh một vệt thơ đầy suy tư, trăn trở. Lê Văn Vị với cách nói ngồ ngộ nhưng sắc sảo chỉ rõ những vấn đề nhân sinh đầy mâu thuẫn trong đời sống thường nhật, một nghi vấn nhân văn trong tâm thức độc giả. Quỳnh Hoa, một cây bút từng được giới thiệu trên truyền hình "người đàn bà bán cá làm thơ", thơ chị tạo một cảm giác chua chát dịu nhẹ khi giới thiệu cho độc giả một nỗi bẽ bàng mới của người phụ nữ hiện đại và sự vươn lên đầy khâm phục để khẳng định mình. Hồ Minh Thông, một tác giả nữ có lối viết tân kỳ, nhiều tìm tòi trong thể hiện. Thơ Đinh Lan Hương nữ tính dồi dào nhưng không kém chất suy nghĩ. Phan Duy Đồng chân thật, nhuần nhuyễn trong thể tài lục bát và thơ cho các em...
Một bộ phận đáng kể là thơ viết cho thiếu nhi và thơ tuổi học trò. Viết thơ cho lứa tuổi học trò cắp sách đến trường không hề đơn giản. Nó đòi hỏi người viết có tâm hồn trẻ trung, biết nhìn các sự vật, hiện tượng trong đời sống bằng cái nhìn hồn nhiên, ngỡ ngàng và kiểu liên tưởng ngộ nghĩnh với đôi mắt trẻ thơ. Một số tác giả đã dành nhiều tâm huyết trên những trang thơ viết cho thiếu nhi. Xuân Hoài có hai tập Sen lên và Những cây dù đỏ. Thơ Xuân Hoài trở thành những dòng sữa ngọt lành bồi đắp tâm hồn tuổi thơ, giúp các em có những cảm xúc tốt lành về cuộc đời, về tự nhiên. Thái Vĩnh Linh với các tập: Hai mặt trời, Mưa sao ngân hà, Cánh cò trắng, Phố trong bản... Phần lớn thơ Thái Vĩnh Linh dành cho lứa tuổi nhi đồng. Thơ ông nhẹ nhàng, đơn giản trong cấu tứ và hình ảnh, mang âm hưởng đồng dao, thiên về những phát hiện độc đáo, ngộ nghĩnh, bất ngờ, hợp với tâm lí, lứa tuổi.
Nhìn trên đại thể, thơ Hà Tĩnh trong nhiều năm qua có ba xu hướng chính. Xu hướng thứ nhất trung thành với lối viết truyền thống (chiếm số đông). Viết theo hướng này, thơ thiên về biểu cảm, ý thơ rõ, mạch thơ lộ, tứ thơ câu nệ vào sự việc, thậm chí nhiều lúc sa vào kể lể, nhạc điệu thơ du dương, thể thơ đắc dụng là lục bát, tám chữ, bảy chữ, năm chữ..., ảnh hưởng của dặm vè, của ca dao dân ca xứ Nghệ khá rõ. Người viết thiên về xu hướng này có thể đáp ứng số đông độc giả, nhất là đại chúng. Tiêu biểu cho xu hướng này là Xuân Hoài, Duy Thảo, Minh Nho, Nguyễn Trọng Bính và nhiều cây bút khác.
Xu hướng thứ hai thuộc về những người có khát vọng đổi mới, nhưng đặt yêu cầu cao ở sự đổi mới về tư tưởng, cách nhìn, quan niệm về cuộc sống và sự kết tinh nghệ thuật chứ không quá câu nệ về hình thức câu thơ, bài thơ. Thơ của họ thiên về suy tư, giàu sức gợi. Nguyễn Sĩ Đại, Lê Quốc Hán, Phan Tùng Lưu, Bùi Quang Thanh, Quỳnh Như... thuộc xu hướng này.
Xu hướng thứ ba là xu hướng muốn cách tân nghệ thuật, tiếp cận với thơ hiện đại. Loại thơ này thường không rõ mạch, không dễ nắm bắt ý tưởng tác giả. Câu chữ, hình ảnh thường táo bạo, tân kì, cách biểu đạt mới lạ, kết cấu tự do, phóng túng, nhiều trường hợp bài thơ gây khó hiểu, vì thế không hợp với số đông độc giả. Nguyễn Ngọc Phú là nhà thơ luôn có ý thức phấn đấu theo hướng này… Đã có những thành công và chưa thành công, nhưng có thể nói tiềm năng của thơ Hà Tĩnh là rất đáng hy vọng...
1.1.2. Những đặc điểm chính của thơ Hà Tĩnh và thơ xứ Nghệ đương đại
Chiến tranh vẫn là đề tài lớn của văn học Việt Nam đương đại. Văn học tiếp tục viết về chiến tranh nhưng thể hiện dưới một góc nhìn mới. Hiếm có một dân tộc nào trên thế giới lại trải qua cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại , trường kỳ và gian khổ như cuộc chiến tranh chống Mĩ của dân tộc Việt Nam. Hà Tĩnh là một trong những tuyến lửa gan góc, dũng cảm và cũng đầy thử thách đau thương. Điều này lí giải tại sao trước năm 1975 viết về chiến tranh là một trong những chủ âm của văn học Hà Tĩnh. Những bài thơ như: Đồng chí, Ngọn đèn đứng gác, Thư nhà... của Chính Hữu, Mừng chiến thắng trời quê của Duy Thảo, trường ca Sư đoàn của Phạm Ngọc Cảnh, Những ngôi sao của Xuân Hoài... từng vang lên như những khúc quân hành, làm nức lòng bạn đọc cả nước. Cũng chính vì thế, sau 1975, chiến tranh đã kết thúc, vậy mà âm vang của nó vẫn còn vọng mãi trong những bài thơ của các cây bút Hà Tĩnh thuộc mọi thế hệ. Tuy nhiên đề tài chiến tranh đã được "xử lí" theo một hướng khác, bởi nó được khúc xạ qua cái nhìn mới.
Trước đây, trong văn học, chiến tranh được thể hiện qua cái nhìn cận cảnh - cái nhìn của kiểu nhà văn - chiến sĩ, những người trong cuộc. Do yêu cầu của thời đại, văn học tập trung làm nổi bật chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đề cao lòng dũng cảm, tinh thần lạc quan... Khi chặng đường khép lại cũng là khi người sáng tác văn học có điều kiện nhìn hiện thực chiến tranh từ những phương diện mới, trong một tâm thế mới. Trong những trang viết sau thời kỳ đổi mới, hiện thực chiến tranh với tất cả sự đa diện , phong phú và phức tạp của nó đã từng bước được khám phá. Hồi ức chiến tranh được trở đi trở lại qua nhiều trang viết đủ các thể loại. Cảm hứng sử thi đã dần dần được thay thế bằng cảm hứng thế sự. Âm hưởng hùng tráng không hề lấn át tiếng nói cảm thấu những nỗi đau, những mất mát lớn lao của bao nhiêu thế hệ người Việt Nam. Những vết thương trên thân thể có khi không nhức nhối bằng những vết thương trong tâm hồn. Đã từng say sưa miêu tả những chiến thắng vinh quang, từng ngợi ca anh hùng của những thế hệ nối tiếp nhau viết "bài thơ trên báng súng", văn học còn không quên khắc họa bộ mặt khủng khiếp của chiến tranh và cảm nhận sâu sắc sự trả giá của dân tộc mình cho chiến thắng. Bởi vì:
Chiến tranh không đẻ ra làng hoa
Không đẻ ra làng lúa
Chiến tranh đẻ ra làng góa bụa
Đẻ ra làng Lòi
Những thanh niên xung phong cam khổ
Lớn lên không mảnh tình vắt vai...
(Chuyện tình ở một làng Lòi - Hồng Chinh Hiền)
"Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh", đó là truyền thống, lẽ sống còn của dân tộc Việt Nam. Không phải ngẫu nhiên viết về cuộc chiến tranh đã qua, âm điệu buồn là phổ biến trong ở các tác phẩm. Chỉ những ai vô tâm, hời hợt mới không biết xót đau trước những hi sinh lớn lao của hàng triệu con người, đặc biệt khi nỗi đau mất mát đó thể hiện trong mỗi ngày ta sống:
Chiến tranh đi qua hơn hai chục năm rồi
Bao khuôn mặt vẫn trẻ trung tươi rói
Những khuôn mặt lại "nhắn tìm đồng đội"
Đêm hiện về màn ảnh nhỏ thiết tha
Giá bây giờ họ đang sống bên ta
Thì là bác, là ông, là chú...
Là con cháu ấm tình đoàn tụ
Là vui buồn bè bạn có nhau
( Nhắn tìm đồng đội - Duy Thảo)
Bao thế hệ người Việt Nam ngã xuống trong chiến tranh là biểu hiện của phẩm chất anh hùng, nhưng mặt khác là đó còn là vết thương âm ỉ có bao giờ nguôi. Đêm A Lưới của Bùi Quang Thanh bằng nỗi thảng thốt ngậm ngùi trước tâm sự không lời mà người lính vĩnh viễn ôm theo vào lòng đất:
Những tiếng nấc "mẹ ơi" trong gió thoảng
Tượng đài cao run rẩy giọng trăm miền
Nghì con mắt đỏ mòng đêm thương nhớ
Gió chợt dừng. Trăng lạnh. Phút giây thiêng...
Sấp ngửa đồng tiền. Âm dương hòa hợp
Con nằm đây. Con đợi mẹ lâu rồi
Bọc đất nâu như hài nhi khát sữa
Riết vào lòng tiếng nấc "à ơi"...
Tuy nhiên, những tác phẩm viết về chiến tranh không chỉ gieo vào ta một nỗi buồn, mà còn chắt chiu những giá trị nhân bản, làm ấm lòng người đọc. Trước cái mất càng biết quí cái còn, trước cái thiệt thòi bất hạnh càng biết quí cái hạnh phúc bình dị nhỏ nhoi của sự sống.
Ở bất cứ thời đại nào, yêu nước cũng là một trong những niềm cảm hứng sâu đậm nhất trong văn học Việt Nam. Thế nhưng cảm hứng yêu nước không phải là "dĩ thành bất biến" mà nó được biểu hiện ra thành muôn vàn cung bậc, sắc thái khác nhau, nhiều giọng điệu đa dạng phong phú tùy thuộc vào sự tác động của thực tế cuộc sống cũng như cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ. Là một bộ phận của tổng thể, có mối quan hệ hữu cơ với nền văn học cả nước, văn học Hà Tĩnh cũng nằm trong qũy đạo đó. Tuy nhiên, cuối thế kỉ XX thể hiện trước hết ở tình cảm người cầm bút với quê hương xứ sở. Ấy là những tình cảm thiêng liêng máu thịt, cho thấy sự gắn bó giữa con người với nguồn cội một cách hết sức mật thiết.
Không phải ngẫu nhiên văn học địa phương (trong đó có văn học Hà Tĩnh) mang những đặc điểm vừa nêu. Con người là một phức thể văn hóa, liên quan khăng khít, chịu sự chi phối của môi trường sống (cả tự nhiên và xã hội). Nó hình thành nên những tình cảm tự nhiên sâu đậm cũng như ý thức về bổn phận của con người đối với nơi mà mình được sinh ra và lớn lên. Mặt khác, Hà Tĩnh là một trong những miền quê còn bảo lưu những đặc trưng văn hóa làng xã - yếu tố nổi bật của nền văn hóa nông nghiệp cổ truyền Việt Nam. Nó chi phối sâu sắc đời sống tâm hồn, tác động mạnh mẽ đến sự hình thành nhân cách của người sáng tác. Cho nên dù viết về bất cứ vấn đề gì, dù hướng tới đối tượng nào của đời sống hiện đại, thì trong thẳm sâu tiềm thức của mình, các nhà thơ Hà Tĩnh vẫn dành một phần tình cảm chân thành, tha thiết cho quê hương xứ sở. Mỗi người viết có riêng một dáng vẻ, một cách thức góp thêm vào sự khắc họa hình ảnh một miền quê.
Nói đến Hà Tĩnh là nói đến vùng đất khổ nghèo, lam lũ. Ấy là miền của gió Lào cát trắng, của đá sỏi, đất cằn, đồng chua nước mặn. Bao nhiêu khốc liệt khó khăn dồn tụ ở dải đất hẹp này. Đã qua rồi cái thời lạc quan nông nổi đầy màu sắc ảo tưởng, giờ đây các nhà thơ có đủ bản lĩnh và sự điềm tĩnh để khám phá, thấu hiểu bản chất và bản sắc quê hương mình một cách chân thực:
Nắng chang chang rát mặt gió Lào
Trưa đứng bóng, can lạch đầm nứt nẻ
Từng mảng bùn khô bết phủ lưng trâu
Cỏ héo úa, nghĩa địa làng hoang vắng
Bao kiếp người yên nghỉ giữa đồng khô
Ngỡ nằm xuống sẽ qua đi tất cả
Nắng vẫn nung nghiệt ngã những nấm mồ...
Cây lúa hạn đội rãnh cày để sống
Lưng trần che muôn thủa những túp nhà...
( Một vùng quê - Nguyễn Huy Hoàng)
Nằm trên dải miền Trung nhỏ hẹp, Hà Tĩnh thường xuyên đối mặt với thiên tai khắc nghiệt:
Bão xô nghiêng mảnh đất gầy
Nắng hun đến cái diệp cày cũng cong
Lụt mang đi hết của đồng
Bao nhiêu hạt mấy đi... không trở về
( Lục bát Tiên Điền - Yến Thanh)
Mỗi người viết là một góc nhìn, một cách cảm nhận, nhưng trong bấy nhiêu tác phẩm viết về quê hương, hình ảnh nắng lửa, gió hun, đồng bãi khô cằn, đất cày lên sỏi đá, cơn bão chưa qua, hạn hán đã tới rồi... cứ trở đi trở lại điệp khúc xót xa:
Bụi tre gầy xác xơ trưa lửa
Cò có bay về đứng rỉa cánh hay không?
(Hồn quê - Nguyễn Ngọc Phú)
Quãng đê ráp mặt oi nồng
Tre gầy quắt nghẹn, cơn giông trở chiều
Xứ này như của trời trêu
Một giây chín ngọ cũng xiêu bóng người
( Làng diêm - Nguyễn Ngọc Vượng)
Chẳng phải ngoa ngôn hay cường điệu gì đâu mà chính là sắc diện, dáng hình, hồn cốt của vùng quê Hà Tĩnh đấy thôi.
Khi đã cởi bỏ cách viết thiên về ca ngợi một chiều, các tác giả mới có điều kiện nói một cách chân thực nhất hiện trạng cuộc sống. Thấm thía đến tận cùng những kham khổ, lo toan của bao kiếp người, đó là lối ngỏ để văn học đến với tâm hồn độc giả:
Đèo Ngang một dải đang nghèo
Chú tiều xưa
Vẫn chú tiều ngày xưa...
(Đèo Ngang - Nguyễn Trọng Bính)
Hình ảnh quê hương ra trong từng gương mặt người, in dấu trong từng bữa ăn ngày no, ngày đói:
Mưa tháng tư
Mưa gạo
Mẹ nấu cơm
Khói trắng đòng đòng
Bát canh
Trần lưng sống khế
Con tép mòi
Nghi ngút nắt đen...
(Tháng tư - Trần Nam Phong)
Viết về quê hương, người viết giàu tâm huyết gửi cả hồn mình vào từng hình ảnh đơn sơ mà thân thuộc, vào nỗi buồn, niềm vui, nỗi mong ước bình dị của con người. Chẳng phải ngẫu nhiên mà hình tượng mẹ với bao nỗi vất vả, nhọc nhằn được thể hiện trong thơ văn luôn gắn liền với những tình cảm thương mến quê nghèo. Qua mẹ, ta thấu hiểu hơn về quê hương:
Mẹ cắm cây mạ xuống bùn
Cắm nỗi lo vào đất
Cây mạ thẳng cao
Lưng mẹ thêm còng
Mẹ cấy trong mưa - cằm người chạm sóng
Một trăm ngày chờ mong cây lúa chín
Một trăm đêm giấc ngủ chập chờn...
(Mùa gặt - Quỳnh Như)
Lúa đỏ đuôi rồi mẹ ơi
Phất phơ đôi bờ ngực lép
Rám nắng lặn vào da mặt
Tay gầy vin mãi buồng cong
(Tiếng đồng - Bùi Quang Thanh)
Song, nếu văn học Hà Tĩnh chỉ đề cập đến một vài mặt như vừa trình bày trên thì chắc vẫn còn phiến diện. Hà Tĩnh là một vùng đất giàu truyền thống quật cường cũng như có bề dày của một vùng văn hóa lâu đời. Cái nơi đã sinh ra Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Huy Tự, Lê Hữu Trác, rồi những Hoàng Ngọc Phách, Xuân Diệu, Huy Cận,... nơi đã sinh ra những huyền thoại, truyền thuyết, cổ tích, những câu chuyện trạng hấp dẫn, những làn ví dặm, những điệu ca trù đặc sắc.... thì không thể không gợi lên ở con người thời nay những suy nghĩ tự hào. Văn hóa của quê hương đã trở thành một nguồn cảm hứng trong văn học Hà Tĩnh 25 năm qua. Viết về quê hương không chỉ tái hiện cái thực tại đang diễn ra, mà còn phải biết khai thác những tầng vỉa văn hóa tinh thần còn trầm tích trong lòng cuộc sống. Một vùng đất linh sơn tú khí sẽ còn góp phần bồi đắp tâm hồn con người một cách dài lâu:
Bồi hồi Bến Thủy - đèo Ngang
Chân chưa chạm đất đã man mác lòng
Chín mươi chín đỉnh non Hồng
Anh linh rừng trúc, mây lồng khí thiêng
Trà Sơn một mái che nghiêng
Sông trong ngăn ngắt ngút miền thơ ca
Tình cờ ngồi một gốc đa
Trạng nguyên, tể tướng sinh ra chốn này.
(Gửi Hà Tĩnh - Nguyễn Sĩ Đại)
Nhiều người đã muốn ngược dòng thời gian trở về tắm đẫm tâm hồn trong mạch nguồn văn hóa quê hương. Những truyền thuyết, huyền thoại, cổ tích, những khúc ca ngàn đời bất tử sẽ đồng hành với chúng ta trong hành trình hướng tới tương lai: “Em nhìn kia, phía ráng đỏ là cuối dòng sông, nơi lát nữa vầng dương sẽ mọc, nơi gặp gỡ giữa nguồn non mạch nước và còn đó chúng mình sẽ cặp bến Long Ngâm. Long Ngâm - vẫn là những thân rồng xoắn quyện vào nhau thành hình hài xứ sở - đã nghe nồng mặn xóm diêm, xóm chài, sóng lay bờ đá... muôn âm thanh tự Thiên Cầm vọng mãi tới Đèo Ngang”( Đò dọc sông đêm - Bùi Quang Thanh). Gắn bó sâu sắc với quê hương, các tác giả càng có điều kiện khám phá những giá trị tinh thần mà cha ông để lại:
Câu ví dặm thấm vào cây, vào đất
Cây xanh tươi và đất mỡ màu
Câu ví dặm lặn vào trăng vào nước
Để ngàn đời trăng nước yêu nhau
( Câu ví dặm - Phan Thế Cải)
Viết về quê hương, văn học Hà Tĩnh thấm đẫm tình cảm thương nguồn nhớ cội. Đã sống và viết trên mảnh đất này, người viết có điều kiện thấu hiểu hơn ai hết mạch đất hồn người, thấm thía mọi niềm vui nỗi buồn của từng ngày sống. Họ viết về quê hương với tình cảm chân thành, xúc động. Xuân Hoài, nhà thơ gắn bó cả đời mình với mảnh đất Hà Tĩnh, vậy mà trong thơ ông, quê hương đã trở thành một nỗi hoài niệm da diết khôn nguôi. Ông luôn mang trong mình tâm trạng của một người xa xứ:
Người đi xa mấy năm ròng
Chưa ai quên một khúc vòng chân đê
Cỏ xanh như chính lời thề
Hai bờ đê gợi bước về vương vương...
( Con đường về bến Tam Soa)
Thơ Duy Thảo thường thiên về duy cảm, trong đó tình quê luôn được ông dành cho một vị trí quan trọng:
Nửa đời quen sống xa quê
Tóc sương giờ lại tìm về vườn xưa
Đọt bầu ngọt, bát canh chua
Trái xoan rụng, nhớ tuổi thơ bàng hoàng
Chè xanh đậm bột khoai lang
Bạn bè thấm nghĩa mênh mang vơi đầy...
(Vườn xưa)
Với một hồn thơ đậm chất suy tư, Lê Quốc Hán đã thể hiện niềm hạnh phúc của một người được sinh thành trên mảnh đất đáng tự hào: Mẹ sinh ra tôi trên dòng sông Ngàn Phố xanh trong, chảy êm đềm như dáng đi của mẹ. Phải hai bên triền sông những miệt vườn mượt mà xanh non đến thế, nên mắt người còn biếc tận hôm nay? Đất văn vật ngàn xưa Hải Thượng Lãn Ông từng in vạn dấu giày, để hôm nay mỗi ngọn cỏ, mỗi bông hoa, mỗi nhành cây đều hóa thành thuốc quí. Đất thi sĩ sinh ra người thi sĩ, trùng điệp Tràng Giang vỗ mãi đến bây giờ (Khúc hát về những dòng sông)
Sống gắn bó với đất đai xứ sở, quen thuộc quá với hình ảnh quê hương, nhiều lúc ta dễ quên đó là một phần máu thịt của hồn ta. Chỉ cần một lần xa quê, ta mới biết thế nào là nỗi nhớ. Tình cảm đó không ít những người cầm bút đã thể nghiệm:
Mười mấy năm làm lính xa nhà
Anh đã qua bao mùa xiêm áo cưới
Vẫn đau đáu nhớ thương về xóm lưới
Mơ một ngày trở lại ấm vòng tay
( Về Nhượng Bạn - Nguyễn Công Kí)
Thế mới hiểu nỗi lòng của những nhà thơ sống li quê. Bộn bề với bao lo toan thường nhật, bao công việc trong cuộc đời vần xoay chóng mặt, nhưng một lúc nào đó đối diện với lòng mình, tình quê bỗng bật ra thành tiếng lòng thổn thức:Nghĩ về quê hương mình
Lắm khi trào nước mắt
Như củ khoai lăn lóc
Người bỏ làng ra đi
Giục em, em ngại về
Sợ xe đò trắc trở
(Quê mình - Dương Kỳ Anh)
Mỗi người viết vững vàng đều phải là một nhân cách văn hóa. Họ không tự mãn một cách lố bịch, nhưng cũng không tự ti khi biết quê hương mình còn nhiều điều bất cập so với cuộc sống của mọi miền, Dễ bỏ phù vinh không dễ bỏ quê nghèo, bởi vì: Mang quê hương như viên ngọc trong hồn / Máu thịt dời theo trau chuốt mãi / Tôi hút nhụy trăm vùng quê xa ngái / Vẫn màu hoa râm bụt đỏ bên lòng ( Tâm sự một vùng quê - Nguyễn Sĩ Đại).
Sông có nguồn, cây có cội, người có tổ tiên, quê hương. Do vậy, hướng về nguồn cội với tất cả nghĩa tình sâu nặng là một trong những nội dung nổi bật của văn học Hà Tĩnh đương đại. Những tác phẩm như vậy sẽ còn có chỗ đứng xứng đáng trong lòng người đọc các thế hệ trên mảnh đất này.
1.1.3. Các tác giả tiêu biểu thơ Hà Tĩnh và thơ xứ Nghệ đương đại
1.1.3.1. Nhà thơ Duy Thảo
Duy Thảo là nhà thơ thuộc thế hệ chống Mỹ của Hà Tĩnh. Ông đã đạt rất nhiều giải thưởng: Giải Ca dao Nghệ An - 1963, giải Thơ Nghệ An 1964, giải đặc biệt Thơ chống Mỹ Hà Tĩnh 1968, giải thưởng văn học Nguyễn Du lần 1- 1990, Cành xanh lá xanh, giải thưởng văn học Nguyễn Du lần 2 - Lối xanh, giải thưởng văn học Nguyễn Du lần 3- Sau mùa lá rụng, giải thưởng văn học Nguyễn Du lần 4 - Mưa ngâu, Lộc vừng, giải thưởng của UB LHVHNT VN năm 2008. Duy Thảo "Tuy là nhà báo lâu năm, nhưng khác với đồng nghiệp thường tải tài năng ra nhiều lĩnh vực truyện, kịch, phóng sự, nghị luận... còn ông chăm chút dồn hết cho thơ. Đến với thơ, ông đi theo con đường truyền thống lấy tình làm gốc, mọi tiếp cận về kỹ thuật thơ ca tân kỳ, hiện đại đối với ông chỉ nằm trong vòng quay thứ hai, thứ ba..." [38, 137.] Ông cùng thế hệ và lối viết có thể xếp chung dòng với Xuân Hoài, Nho Liêm, Phan Duy Đồng..., tuy nhiên có sắc thái riêng. Thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ, trưởng thành từ những năm chống Mỹ nhưng thơ ông trải dài trên suốt cả thời kỳ xây dựng sau này và cũng chính thời kỳ sau này con đường Thơ của ông chuyên nghiệp và khẳng định mình hơn. Âm hưởng thơ ông bởi vậy có sự tiếp nối nhưng có những đặc điểm riêng của hai chặng đường, hai cách nhìn, hai mối cảm xúc về lịch sử, cũng như những vấn đề trữ tình cá nhân.
Nhắc đến Duy Thảo là nhắc đến một cốt cách chân thật và một sức lao động cần cù miệt mài theo năm tháng. Ông như con ong chăm chỉ miệt mài trên các trang thơ, quên đi tuổi tác và tháng năm. Cho đến Mưa ngâu- tập thơ thứ năm, ông vẫn như đang còn sung sức. Ai đó cho rằng thơ Duy Thảo viết cồ cộ như con người ông . Quả vậy, từ bài thơ đầu khá nổi đưa ông đến với bạn đọc quê nhà, bài thơ Mừng chiến thắng trời quê, đến nay vẫn một cốt cách ấy, thế nhưng nhiều bài đã đứng được trong lòng đọc giả. Sinh trưởng trong một vùng đất đẹp như tranh họa đồ, có núi giăng tiếp núi, mây trôi kín trời, vùng đất hội hè, hết Chùa Hương đến Chợ Củi, hết chọi trâu đến đua thuyền... Vùng đất giàu hào khí song cái nghèo đeo đẳng ngàn đời nay. Tập quán thẫm mĩ nơi này không ưa những hào nhoáng, những phù vân, những hình thức giả tạo. Thơ Duy Thảo cũng có cái phong vận ấy, cốt lấy cái tình thực làm điểm tựa mà thể hiện. Đứa con quê nghèo khi nói về nơi chôn rau cắt rốn thật khiêm nhường, dung dị:
Thương mẹ già còng lưng lo chống chọi
Nước xiết chân lẩy bẩy chuyến đò đầy
Thương em thơ bụng đói mắt thơ ngây
Chờ tấm bánh mỏi mòn chưa kịp tới
( Gửi miền Trung)
Và trong cái buổi còn nhiều nhố nhăng, thật giả lẫn lộn, nhiều đua đòi thái quá, người đọc tìm thấy đâu đây một hơi gió lành khoan hòa, ấm áp, một nề nếp gia phong:
Câu tục ngữ ôm vào câu thành ngữ
Đời cho ta giàu tiền bạc, ngãi vàng
Để lúc vui con biết cười ý tứ
Để lúc buồn con biết khóc đoan trang
( Thơ cho con ngày đi lấy chồng)
Duy Thảo thử thách nhiều trên lối thơ năm chữ, thơ tự do, thơ tám chữ, thơ lục bát, tứ tuyệt... đâu cũng gặp một cách nói ấy: chân thật, giản dị, không khoa trương, màu mè, không hô to gọi giật ngay cả khi viết chiến công, viết về Đảng, về lãnh tụ (Gửi trọn niềm tin, Trước ảnh Bác). Mảng thơ tứ tuyệt ghi dấu một thành công của ông. Đặc biệt các bài thơ về hoa lá cây cảnh. Hàm súc và chân tình. Cốt cách thơ của ông hình như hợp với loại thơ này. Bài Thời mộng du với ngôn ngữ thơ tự nhiên, tứ thơ sâu kín, hình tượng thơ đầy day dứt lòng người:
Bao nhiêu nuối tiếc qua rồi
Ta về xếp kín một thời mộng du
Xin làm chiếc lá chiều thu
Để ai lãng đãng sương mù chớm đông
( Thời mộng du)
Thiên nhiên vốn trong sạch và vô tư. Người xưa khi tránh đời "đục" hay tìm về với thiên nhiên. Duy Thảo khi mệt mỏi cũng tìm về với thiên nhiên để nghỉ ngơi:
Chân mỏi gót trần lên thiền viện
Bỗng nhẹ thênh lòng một tiếng chim
( Tiếng chim)
Đời không bình yên, nhà thơ tìm về với hoa lá mong nhận được một sự thủy chung để rồi ngẫm nghĩ sự đời đầy vẻ nghiệm sinh xoáy vào tâm tư người đọc:
Thủy chung còn lại nhành hoa bưởi
Thơm mát góc vườn giữ tuổi xuân
(Hoa bưởi)
Duy Thảo nói về sự hi sinh mất mát của những bà mẹ, người chị trong chiến tranh:
Ngày báo tử chị khóc không thành tiếng
Rồi hóa thân hàng xóm gọi bằng bà
(Mưa ngâu)
Hay:
Để tâm linh thấm vào tận nỗi đau
Lời trăng trối mẹ già lúc vĩnh biệt
Nắm nhang thắp nửa chừng không cháy hết
Khúc đoạn trường lời cách biệt âm dương
(Nhắn tìm đồng đội)
Ông trải mình ra nhiều mặt của đời sống hằng ngày và có những phát hiện thật đáng trân trọng. Ông thể hiện một tâm trạng nước đôi về "cảnh cũ người xưa":
Lối cũ vườn xưa giờ quay lại
Đầy cành lấp loáng trái hồng xiêm
Mình trồng giờ hóa thành khách lạ...
( Qua vườn xưa)
Duy Thảo viết về quê hương, bè bạn, gia đình. Nào Tam Soa, Cầu Ngúc, Suối Tiên, Ngã ba Đồng Lộc... tất cả đều được gửi gắm trong những câu thơ đằm thắm, chân tình. Ai đã qua rồi những thăng trầm lên xuống, những được thua, vấp ngã hẳn không thờ ơ lật qua những dòng thơ:
Rồi tất cả tan chìm cơn dĩ vãng
Những dại khờ, những lọc lõi phù du
Xin lượm chút sợi vàng rơm trên gối
Khóe mắt nhìn âu yếm những thương yêu
(Lối rẽ)
Duy Thảo là một trong những tác giả đáng ghi nhận của thơ Hà Tĩnh hiện đại, "Sự hiện diện của tác giả trong những chặng đường thơ của quê nhà nó chẳng là sấm, là chớp, là trăng, là sao, mà chỉ là những trận "mưa ngâu" dìu dịu trên miệt quê nghèo. Tôi yêu những cơn mưa này" [38, 144].
1.1.3.2. Nhà thơ Xuân Hoài
Xuân Hoài, trước khi làm thơ, ông là một thầy giáo toán học để lại ấn tượng đẹp đẽ bao lứa tuổi học trò xứ Nghệ. Cuộc đời chảy hiền hòa trong kí ức tuổi thơ của ông với hình ảnh một dòng sông La mượt mà nhung lụa, những cánh cò trắng trên đồng làng, cây đa hò hẹn những đêm hè. Từ bài thơ đầu in trong Hương quê, tập thơ xem như quả ngọt đầu mùa, ông lặng lẽ thả mật thơm cho đời đến nay đã gần mười lăm tập thơ. Ở ông có cái gì da diết đến nao lòng sự đam mê của người cầm bút.
Có thể nói Xuân Hoài là nhà thơ của làng quê, của tình thương. Đọc thơ ông, ta bắt gặp một tâm hồn đa cảm trước biến động của cuộc đời. Tình yêu quê hương làng xóm, bến bãi, nỗi thương cảm những thân phận nổi trôi, sự trìu mến đối với con trẻ... đó là những nguồn đề tài vô tận thổi vào thơ ông những ý tưởng sâu xa.
Vào những năm chiến tranh ác liệt, đất chưa một ngày được bình yên, người chưa một lần được nhàn nhã. Tất cả vẫn đang gắng sức mong đợi- mong cho cuộc kháng chiến mau thắng lợi. Sức sống của con người ở đây mãnh liệt tồn tại trong đấu tranh:
Đêm che bớt ngọn đèn nhà không rạng
Đêm Cẩm Bình như đêm mọi nơi
Đạn bom giặc Mĩ như điên loạn
Ở đây ta bút chẳng ai rời
(Đêm Cẩm Bình)
Thơ ông tạo cái độc đáo riêng về cách nghĩ, cách nhìn qua ý thơ lay động lòng người khi chiêm nghiệm một nữ anh hùng dũng cảm quên cái chết, đếm bom rơi nơi Ngã ba Đồng Lộc:
Mỗi ngọn cờ từ bàn tay em
Cắm chỉ đường có hố bom chậm nổ
Khi xe qua đã thành vô số
Những lá cờ bay lên chiến công
(Tặng La Thị Tám)
Dù đi đâu về đâu, hình ảnh quê hương luôn luôn thức dậy trong nhà thơ bao kỉ niệm sâu xa, lắng đọng trong nỗi nhớ mỗi tối ông nằm, trong mỗi bước ông qua. "Xuân Hoài, trước hết là nhà thơ của xứ sở, đất nước và con người Nghệ Tĩnh - mảnh đất địa linh nhân kiệt - lúc nào cũng khiến nhà thơ xúc động. Đó là nơi tuyệt vời nhất bởi ta chôn rau cắt rốn ở đó? Hỏi có nơi nào êm dịu bằng quê cha đất tổ Hà Tĩnh? Quê hương đã thành vật thiêng, lúc nào cũng làm trái tim Xuân Hoài thổn thức. Anh yêu quê bằng thứ tình yêu máu thịt : Bến quê tủi tủi mừng mừng - Nhìn sang Thiên Nhẫn trời lưng lửng chiều. Anh tự hào với quê chung Nam Liên, quê Bác: Bước chân bè bạn năm châu - Đứng gần nhau, xích gần nhau lối này. Ông lý sự về thế đứng bước đi của sông Lam, núi Hồng: Nếu không có sông Lam - Núi Hồng buồn biết mấy - Núi Hồng không đứng đấy - Sông Lam trong cũng thừa [38, 133]. Nhà thơ đứng trên tầm cao của quá khứ để dõi về tương lai với bao dự định mới lạ:Tầm cao này không thể đo bằng thước
Máu, mồ hôi từ hàng trăm năm trước
Nên tầm cao vững chãi hôm nay
(Trên đê sông La)
Đa cảm với thiên nhiên, một cây rơm ngày mùa ở làng quê cũng trở thành câu thơ đầy ấn tượng:
Sáng ngày mặt trời lên cao
Cây rơm thành cây nắng
Trong đêm ánh trăng ngần
Cây rơm choàng áo trắng
(Cây rơm)
Ta bắt gặp những câu thơ sóng sánh trong một lần thả thuyền với thiên nhiên trên hồ Kẻ Gỗ:
Thuyền đi trên hồ Đầy
Vui niềm vui cội rễ
Những nhành mương chảy khỏe
Nuôi xanh bao cánh đồng
(Đi thuyền trên hồ Kẻ Gỗ)
Bài thơ Những ngôi sao được giải khuyến khích thi thơ báo Văn nghệ năm 1969 có những câu thơ triết lí gan ruột, tưởng niệm những người con vô danh hi sinh cho quê hương:
Sao trên trời có những đêm tắt lửa
Những ngôi sao Việt Nam đi đánh giặc
Vẫn hành quân sáng rực bốn phương trời
Tình người, tình quê gieo vào trong thơ ông bao kỉ niệm êm đẹp, vấn vương:
Mỗi lần đi xa
Nhớ sông nhớ bến
Lại nhớ mùa hến
Dập dềnh thuyền con
(Mùa hến)
Ông ao ước một cuộc sống thanh bình người sống thủy chung với nhau, trái đất vĩnh viễn không còn chiến tranh. Nhà thơ cầu nguyện trước thiên nhiên, trời đất:
Trước cỏ xanh thường giận bớt nghĩ suy
Như trước cỏ nơi công viên đồng nội
Riêng ở đây cỏ hóa lời kêu gọi:
Đừng để nơi nào thành thảm họa chiến tranh!
(Trước thảm cỏ xanh ở nghĩa địa Pi na nốp)
Tình bạn, tình thầy trò như gọi dậy những kỉ niệm sâu xa đằm thắm tươi nguyên lứa tuổi học trò:
Ôi cái hè lớp mười
Xa lâu càng nhớ rõ
Soi trong màu phượng đỏ
Kỉ niệm còn tươi nguyên
(Viết trong mùa hoa phượng)
Tình quân dân, cá nước được thể hiện tinh tế qua hình tượng sóng đôi "Mẹ - Con" mang âm hưởng dặm vè trong bài thơ Ánh lửa. Bên bếp lửa hồng nồng đượm lời mẹ, tình thương vô bờ bến đã sưởi ấm cho bao chiến sĩ dọc đường hành quân nghỉ lại:
Mẹ kiếm trong bếp nồngÍt than hồng nhóm lửa
Áo quần chăng đầy cửa
Mẹ ngồi hong suốt đêm
Thơ Xuân Hoài giản dị, đằm thắm, sâu lắng, da diết nỗi thương đời, thương người. Nhiều nhạc sỹ đã bắt gặp và đồng cảm với tâm hồn, tình cảm của ông. Nhiều bài thơ của ông đã được phổ nhạc. Âm nhạc đã góp phần chuyển tải thơ ông đến với số đông công chúng. Sau bao nhiêu năm làm thơ, rất nhiều tập thơ ra đời và đã từng được rất nhiều giải thưởng về thơ ở Trung ương cũng như ở địa phương, Xuân Hoài đã đem đến cho bạn đọc những nghĩ suy. Cuộc đời ông đã trải qua bao niềm vui hạnh phúc để bây giờ đã trở về với đất mẹ thân thương. Từ Hương quê (1971) đến Gửi người xa xứ (1998), thơ Xuân Hoài đã trải qua một chặng đường phát triển, đa dạng trong cách nghĩ suy, phong phú trong cách thể hiện, để rồi thơ ông đã neo đậu được trong tâm hồn bạn đọc.
1.1.3.3. Nhà thơ Nguyễn Ngọc Phú
Trong những năm gần đây, có một cây bút được được người yêu thơ đánh giá cao, đó là Nguyễn Ngọc Phú. Hai tập thơ được liên tiếp ra đời, Đám mây màu vảy cá và Giấc mơ lưới. Cả hai tập thơ thống nhất như một chỉnh thể, bộc lộ một cảm quan nghệ thuật sắc bén, một tư duy thơ khá độc đáo, cũng như một giọng thơ riêng rất dễ nhận ra. Nhan đề hai tập thơ đã tự nói lên cái mảng đời sống mà anh gắn bó một cách máu thịt. Đó là miền biển quê anh. Sự gắn kết giữa đứa con của miền quê biển với nơi chôn rau cắt rốn của mình trong trường hợp này thật đặc biệt. Không còn phân biệt chủ thể với khách thể. Nó là sự trộn lẫn vào nhau. Chất mặn mòi của biển đã tan vào máu, chảy trong huyết quản, làm nên từng tế bào của cơ thể và từng tế bào thơ, tạo dựng một diện mạo, bồi đắp một thân phận. Thơ Nguyễn Ngọc Phú là sự tự nhận thức bản mệnh của mình. Đây là những dòng đầu của bản tự khai:
Đêm trở dạ bọc tôi vào tã lót
Xé từng mảnh buồm trong chầm chậm màu nâu
Có thể nói biển nuôi dưỡng nguồn thơ của anh, anh gửi gắm vào biển những tình cảm nồng thắm và biển cũng đã đưa lại cho anh nhiều thi hứng mới mẻ, sâu lắng. Biển luôn len lỏi vào tâm thức của anh nên khi nhìn một thiếu phụ chải tóc, nguồn liên tưởng của anh cũng chảy về phía biển:
Họ chải tóc hay họ chải cát
Móng tay họ như những chiếc vảy cá
Gỡ những mắt lưới rối bời
(Thiếu phụ)
Nguyễn Ngọc Phú triền miên những suy tư về biển, cũng là về nguồn cội, nơi Nấm mồ những người chết biển, phơ phơ bạc cả khói hương (Nẻo về).
Trường ca Biển và tôi cũng lấy đề tài về biển, miêu tả cuộc sống dân chài. Hiển hiện trong trường ca những con người miệt biển chân thật, gan dạ: ông chài, bà mẹ, người vợ, em bé...Viết về những con người này ngòi bút tác giả như được cổ vũ bởi một nội lực tiềm tàng, bởi những kỉ niệm tràn đầy, nên những hình ảnh người làng biển nào hiện lên cũng sắc nét, cũng khêu gợi chân thật và đáng yêu. Từ Người cha ngồi xoắn lại dây neo, người mệ đêm đốt cá đầy đống than, rồi Người bà nhặt vỏ bưởi phơi khô quăn mép nắng. Họ là hiện thân của biển, một cuộc sống phóng khoáng, sôi động hào hùng. Nhưng nhiều khi cũng thật nao lòng, xót thương. Có hạnh phúc nào không trải qua thương đau, bao thế hệ ngã xuống cho làng Chìa sinh nở:
Ta úp mặt vào cát
Dâng lên tổ tiên hương khói ông bà
Bát nhang cắm vào tro nóng.
Hồn quê trong thơ Nguyễn Ngọc Phú là hồn của biển. Nhưng cái tâm điểm ấy, cảm xúc trong anh cứ như vòng sóng loang ra, lan xa, động thấu đến muôn mặt của cuộc sống. Nó thoắt tan, thoắt tụ. Hồn quê trong thơ anh còn là hình ảnh Mùa đông với những cây cối đứng xo mình, những vì sao mất hút trong trời lạnh, và:
Cây trái ngoài vườn thâm thẫm tím
Sao chim không biết để bay về
Trẻ con đốt khói đồng hun chuột
Cánh diều mặc cạn dưới vòm tre...
Bài thơ Về quê của anh như nói hộ nhiều người:
Về quê ta thành khách lạ
Gặp ai cũng muốn hỏi chào
Tổ tiên xanh rì mộ cỏ
Còi xe vướng vít làm sao
...Ước chi thành cây lúa nếp
Trổ bông mẹ đỡ rầu lòng.
Nói cách khác, bên cạnh những bài thơ ấm nồng vị biển, Nguyễn Ngọc Phú còn có những bài viết về cuộc sống đời thường cựa quậy trong tâm hồn hoặc những gì được cất giữ trong kí ức của mình. Đó là những khoảnh khắc Chuyển mùa, một niềm Giao cảm, một Hợp âm lắng nghe được trong phút giây thả hồn mình phiêu diêu, một Mùa màng được đánh thức bởi linh giác mơ hồ... Nguyễn Ngọc Phú thuộc số ít người ở đây có ý thức cao về cách tân nghệ thuật biểu hiện. Anh có viết lục bát hoặc một số thể thơ quen thuộc khác, nhưng có lẽ sở trường quen thuộc hơn cả vẫn là thơ tự do. Hình như chỉ thể thơ này mới giúp anh nói được những gì cần nói. Làm thơ, Nguyễn Ngọc Phú không câu nệ vào sự việc, không dụng công cấu tứ. Thơ anh có những liên tưởng lạ lùng, bất ngờ, gây hứng thú cho độc giả. Chẳng hạn:
Giữa đêm giật mình thăm thẳm
Giếng khơi đánh thủng vòm trời
(Giếng)
Chiếc thuyền nan úp mặt vào ngơ ngác
Như vỏ cau khô mới tiếc một thời trầu
Những bông hoa chết lả về đêm
Hương còn váng vất
Nhập bướm vẽ vòng
Đăm đăm con mắt
(Ngẫu hứng vô vi)
Đây là một trong rất nhiều biểu hiện cho thấy tiềm năng sáng tạo còn rất dồi dào ở nhà thơ - người con của biển này.
1.1.3.4. Nhà thơ Tùng Bách
Đọc thơ Tùng Bách người đọc luôn thoải mái, dễ chịu vì đa phần các bài ngắn, giản dị và vui. Thơ ông không những ngắn mà còn có tứ, một điều mà nhiều thi sĩ rất đề cao. Bài thơ nào cũng gợi cho độc giả một ấn tượng để mà suy cảm, ghi nhớ:
Thôi nào! Để cụ Nguyễn yên
Đừng giả với sử chi phiền lòng nhau
Truyện Kiều được viết ở đâu?
Ở ngay trong cõi bể dâu đời này!
(Nơi Nguyễn viết Kiều)
Thơ Tùng Bách như nhà thơ Trúc Thông đã nhận xét: “Hóm mà nghiêm, nghiêm mà hóm, đùa mà thật, thật mà đùa” [38, 209] Ông đã áp dụng thủ pháp ấy của nghệ thuật dân gian vào những trang thơ của mình:
Trẻ con Làng Lòi nỏ đứa mô có cha
Làng không cha có mà làng Gióng
Rứa đã chộ đứa mô thành Phù Đổng
Phù Đổng thế nào rồi cũng Thiên Vương
…
Đã là con đều sinh ra từ mẹ
Cha chúng là ai? Đi mà vấn ông trời?
Trời không biết đi tìm Cóc mà hỏi
Hỏi đến bao giờ??? Cẳng mỏi thì ...lơ!
Nếu có thể, bạn viết giùm đoạn kết
Để làng Lòi - kí ức sớm thành Thơ.
(Kí ức làng Lòi)
Kí ức làng Lòi - một bài thơ mang rõ cái chất hóm mà nghiêm, nghiêm mà hóm. Tùng Bách viết tưng tửng như cười mà như khóc. Những em bé không cha, (con của các bà mẹ từng là thanh niên xung phong, bộ đội, dân công hỏa tuyến, sau chiến tranh trở về, không còn cơ hội lấy chồng) trong sự bảo thủ cũ là những đứa trẻ vô thừa nhận bị khinh rẻ, nhưng dưới con mắt của tác giả chúng đáng thương và đáng trân trọng vì chúng cũng như bao đứa trẻ khác: Tuấn tú khôi ngô/ Biết giúp mẹ quét nhà, nhặt rau, rửa đọi...
Thơ Tùng Bách gợi cảm ở những thi tứ giàu chất hài nhưng cũng không kém chất trữ tình, trữ tình ngay trong cái "hài", ấy mới là cái riêng của nhà thơ. Bài Chuyện dọc cánh rừng nhà thơ dặn dò người em di dân vào Tây Nguyên tập làm quen với nắng, gió, khí hậu, làm quen với phong thổ, sản vật, với tập quán và với con người buổi đầu còn lạ lẫm, khi đã thành quen thì tất cả đều thấm đượm một tình yêu sâu đậm - tình người. Ngồ ngộ, pha chút trào lộng nhưng thật dễ thương khi tác giả dặn dò người em đang ở tuổi thanh niên ấy, vì:
Em sẽ quen với tiếng đàn môi
Tiếng Tơ rưng, điệu đinh năm dịu ngọt...
Em ơi đừng quên cài khuy áo
Cũng lắm lúc thành giông thành bão
Gió cũng lành cũng dữ cũng buồn vui...
Thơ ông "Giản dị, ngọt ngào thế đấy, nhưng một phương diện khác không thể không nhận thấy khi ông nói về cái sự đời, nhận thức của một trái tim yêu thương nhưng cũng từng trải. Trong cuộc đời suy ngẫm của ông, Tùng Bách thấy có những ràng buộc, những nghịch lý mà người đời đôi khi ngộ nhận sinh ra bi- hài kịch" [38, 212]. Nhà thơ sống một cuộc đời giản dị trung thực nhưng cái nhìn lại không kém phần sâu sắc. Ông là người sống xuề xòa nhưng đòi hỏi cao ở nghệ thuật. Ông tâm sự: "Mươi năm lại nay, thơ ta cũng xuất hiện nhiều cái mới, nhưng cũng xin mở ngoặc: Mới thì có nhưng chưa lạ. Và những cái được coi là lạ thì lại quá xa rời với người đọc! Cái "tôi" được thể hiện khá nhiều ở cây bút trẻ, nhưng xem ra còn lạc lõng, chưa toát lên và hòa nhập vào được cái ta. Ngắn hay dài, vần hay không vần không quan trọng. Nhưng người đọc phải hiểu, phải cảm được tác giả đang nói gì? Muốn gì? Tôi chúa ghét loại thơ hỏa mù. Đành rằng thơ là ý ngoài lời, nhưng ngoài xa quá đến mức ngoài vùng huy động của sự liên tưởng thì không thể gọi là thơ" [38, 217]…
1.2. Bùi Quang Thanh - một gương mặt tiêu biểu của thơ ca xứ Nghệ đương đại
1.2.1. Con đường đến với thơ của Bùi Quang Thanh
Nhà thơ Bùi Quang Thanh sinh năm 1950 tại xóm Kim Tĩnh, Cẩm Tiến, Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng. Ông nội là một trong những lãnh đạo xuất sắc của phong trào Xô - viết Nghệ Tĩnh 1930 – 1931. Bố của ông và các chú đều là những người tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Mẹ là một người phụ nữ hiền hậu, đảm đang, lo lắng công việc gia đình thay chồng để chồng tham gia kháng chiến. Khi Bùi Quang Thanh đang học dở trường cấp ba thì đế quốc Mỹ đang ném bom phá hoại miền Bắc. Theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, ông bỏ dở việc học và xung phong đi bộ đội. Năm 1971, nhà thơ cùng đơn vị của mình vào chiến trường Tây Nguyên. Ông nguyên là lính tiểu đoàn xe 827, sư đoàn 10 quân giải phóng Tây Nguyên 1971 – 1974. Trong các chiến dịch đánh lớn của quân ta vào mùa khô 1972, Bùi Quang Thanh bị thương và được chuyển ra Bắc chữa trị và tiếp tục được đi học về kĩ thuật sửa chữa ô tô của ngành giao thông vận tải. Đất nước thống nhất, Bùi Quang Thanh tiếp tục công việc trong ngành giao thông nhưng nghiệp thơ vẫn theo ông và trong thời gian này ông đi học đại học báo chí. Học xong, Bùi Quang Thanh chuyển sang làm Chánh văn phòng Hội Văn học nghệ thuật Hà Tĩnh, phóng viên kiêm biên tập viên của Tạp chí Hồng Lĩnh. Năm 2003, ông được chuyển sang báo Bảo vệ pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và được giao nhiệm vụ Trưởng cơ quan đại diện của tờ báo này ở khu vực miền Trung Tây Nguyên. Năm 2011, Bùi Quang Thanh nghỉ hưu. Hiện nay, ông công tác tại Tạp chí Kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Từ nhỏ, Bùi Quang Thanh đã được nghe mẹ ông, một người phụ nữ thuộc rất nhiều thơ như Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm, đặc biệt là ca dao, dân ca xứ Nghệ. Bà có giọng ngâm thơ rất ấm. Bùi Quang Thanh được nghe mẹ ru mình, ru em và đã thẩm thấu những ca từ đó. Sau này đi học, ông được tiếp xúc thơ của các nhà thơ cách mạng. Ông thuộc nhiều thơ của các nhà thơ thời bấy giờ như: Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận... những cuộc chia li của bạn bè trang lứa cùng lên đường làm nhiệm vụ, những cuộc chia lìa làng xóm, những hi sinh mất mát đã tác động mạnh lên đến cảm xúc của ông. Từ nhỏ, Bùi Quang Thanh đã có năng khiếu về thơ văn, được các thầy khen ngợi là có triển vọng. Trong những ngày đang đi học, vào năm Bác Hồ mất, cách mạng Việt Nam chúng ta gặp khó khăn, thanh niên hướng ra mặt trận. Theo tiếng gọi của Tổ quốc, ông lên đường đi chiến đấu. Ở chiến trường 5 năm, bom đạn đã “buông tha” cho ông. Chính vì vậy hàng trăm bài thơ được ra đời trong thời gian này. Trong đó, nổi bật là: Đêm sông Mây, Tình mơ, Nỗi nhớ này cháu phải viết thành thơ... Thời này, ông và ông Phan Quốc Thái – một sĩ quan cùng đơn vị - có in chung một tập thơ “Hoa núi”. Mỗi người 25 bài thơ được viết trên giấy pơluya, sau đó gửi qua đường bưu điện ra cho Tạp chí Văn nghệ Quân đội nhưng giữa khắc nghiệt chiến tranh, tập thơ đã bị thất lạc.
Sau khi ra khỏi quân đội, Bùi Quang Thanh được học nghề cơ khí ô tô. Trong quá trình học nghề này ông dành cho thơ rất nhiều thời gian, công sức. Môi trường của ngành giao thông thời kì bao cấp khó khăn và hạn chế về báo chí, tuyên truyền nên ông không có điều kiện tiếp xúc. Chính vì vậy mà hàng chục năm vừa làm việc vừa viết thơ mà không biết gửi vào đâu. Đến khi chia tách tỉnh thì các biên tập viên Ban văn nghệ Đài phát thanh truyền hình Hà Tĩnh phát hiện ra thơ ông và công bố trên đài. Cùng thời gian, thơ Bùi Quang Thanh liên tiếp được đăng trên Tạp chí Hồng Lĩnh. Một năm sau, ông được kết nạp vào Hội Văn học nghệ thuật Hà Tĩnh. Môi trường mới với tỉnh mới, các anh em văn nghệ sĩ về gặp nhau hầu hết đều trẻ, đầy nhiệt huyết. Họ quấn quýt và viết nhiều. Bùi Quang Thanh là người có nhiều tác phẩm được in ấn và đọng lại sâu trong lòng độc giả. Từ những tác phẩm đó, tập thơ Một thời sao lãng quên ra đời. Tập thơ chỉ 27 bài thơ nhưng lúc đó đã có tiếng vang, được bạn bè gần xa đánh giá tốt. Từ đó, ông được mời về Hội Văn nghệ công tác, chuyên ngành thơ. Môi trường ấy thuận lợi cho việc giao lưu, sáng tác…
1.2.2. Món "nợ" ân tình đối với quê hương xứ sở và hành trình sáng tạo của Bùi Quang Thanh
Bùi Quang Thanh sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Hà Tĩnh - mảnh đất có bề dày văn hóa, lịch sử. Đó chính là sự tiếp thêm ý chí cho bản thân ông và người dân ở đây dồn hết cuộc sống, tâm hồn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mỗi người có một sứ mệnh, khả năng để cống hiến cho quê hương của mình. Khát khao viết trỗi dậy trong tâm hồn Bùi Quang Thanh. Không chỉ có thơ, ông còn viết truyện, kí, làm ảnh ca ngợi cuộc sống, truyền thống tốt đẹp của quê hương. Món "nợ" ân tình đối với quê hương xứ sở Bùi Quang Thanh muốn tạo nên một thi hiệu – “thương hiệu” của một người con Hồng Lam để trả món "nợ" ân tình đối với quê hương xứ sở. Niềm đam mê lịch sử và văn hóa truyền thống quê hương như một động lực tạo nên sự thăng hoa và ý thức khám phá trong Bùi Quang Thanh. Ông viết trường ca Huyền thoại núi Hồng, Lay thức,… với cách nhìn, cách liên tưởng độc đáo (Kinh Dương Vương, nàng Diệu Thiện, hạt lúa, củ khoai tím ruột, áo tơi nón lá)... Đó là sự giao thoa lịch sử, quá khứ, hiện tại. Quê hương trong thơ Bùi Quang Thanh hiện chân thực, cảm động, không tô vẽ, không nói quá. Nhà thơ yêu quê, viết về quê mà xót xa cõi lòng: May vẫn còn sim để đến mùa / Em gái chăn bò gửi khách xa / May vẫn còn mua cho hạ đến / Qua đèo còn thấy lá chen hoa (Qua đèo Ngang)...
Có thể thấy hành trình sáng tạo của Bùi Quang Thanh, từ tập đầu Một thời sao lãng quên, đến Hạt đắng, Đò dọc sông đêm, Ngọn gió dòng sông, và đến tập gần nhất là Mật ong vàng lũng núi,... Đấy là cả một quá trình sáng tạo với biết bao nhiêu nỗ lực, lao tâm khổ tứ, tìm tòi, khám phá, có những thành công và chưa thành công…
Thành công của Bùi Quang Thanh thể hiện qua các giải thưởng mà ông được nhận: Giải thưởng Tạp chí Văn nghệ quân đội cuộc thi thơ 1998 – 1999 (Giao thừa thiên niên kỉ) cho bài thơ Lời hương khói; Giải thưởng Văn chương Hà Tĩnh 170 năm cho Trường ca Huyền thoại núi Hồng; Giải thưởng văn học Nguyễn Du lần thứ hai (1995 – 2000) cho tập thơ Hạt Đắng; Giải văn học Nguyễn Du lần thứ ba (2001 – 2005) cho tập thơ Đò dọc sông đêm….
Bùi Quang Thanh đến với thơ như một mối lương duyên, như một nghĩa cử trả món nợ ân tình cho quê hương xứ sở. Thơ ông là nỗi lòng thôi thúc, là cảm xúc dâng trào bật ra từ con tim, từ tiềm thức. Thơ viết về người lính, đi theo nhịp đập chung của thơ ca cách mạng. Đó là thơ của thời sử thi. Nhưng sau chiến tranh, ông không thể viết theo lối mòn đã cũ bởi thời thế đổi thay. Bùi Quang Thanh tự mày mò sáng tạo theo cách riêng. Ông tâm sự: "Tôi coi văn thơ là cuộc sống, không có sự tách biệt với đời. Văn thơ tự xuất hiện trong tôi, là tinh hoa cha mẹ tôi và trời đất cho tôi, được bồi dưỡng và chắp cánh quá trình trưởng thành, học hành, đúc kết. Tôi coi tác phẩm văn học là tài sản lớn lao và quý giá nhất của cuộc đời, vì vậy tôi kính dâng đời, mong được sự nâng niu, gìn giữ. Tôi nghĩ mình không có khả năng sáng tạo dồi dào và ít có điều kiện tốt để viết, điều này thật buồn cho những nhà văn. Tất bật vì cuộc sống, vì phận sự, tôi không biết mình viết thơ vào lúc nào. Vậy mà Nàng Thơ vẫn không từ bỏ tôi, bạn đọc vẫn không xa lánh tôi. Đó là hạnh phúc lớn. Đó cũng là trách nhiệm lớn" [38, 125]
Chương 2
CẢM HỨNG SÁNG TẠO VÀ HỆ THỐNG HÌNH TƯỢNG
TRONG THƠ BÙI QUANG THANH
2.1. Cảm hứng sáng tạo trong thơ Bùi Quang Thanh
2.1.1. Cảm hứng về quê hương, đất nước
Cảm hứng là yếu tố quan trọng hàng đầu, mang tính tiên quyết đối với sáng tạo của người nghệ sĩ. Không có cảm hứng, không thể sáng tạo. Cảm hứng (Pathos - khái niệm xuất phát đầu tiên từ người Hy Lạp) chỉ trạng thái tình cảm nồng nàn, mãnh liệt của con người khi đứng trước một hiện tượng nào đó của đời sống, nếu là nghệ sĩ, trạng thái tình cảm ấy có thể tạo nên những thăng hoa trong cảm xúc - tâm hồn – trí tuệ, quá trình sáng tạo bắt đầu…
Cảm hứng về quê hương đất nước là một nguồn cảm hứng lớn đối với nhiều văn, nhà thơ, trong đó có Bùi Quang Thanh. Vừa là nhà thơ, nhà báo, nhà nhiếp ảnh nên ông đi nhiều, tiếp xúc, trải nghiệm nhiều nên mạch cảm hứng cứ tuôn trào lên trang giấy. Quê hương đất nước được ông thể hiện ở nhiều trạng thái, nhiều cung bậc tình cảm khác nhau. Đó là cảm hứng cất lên từ tiếng gàu – một vật dùng để dùng múc nước giếng nơi thôn quê – được nhắc đi nhắc lại trong bài thơ “Tiếng gàu”. Qua đó, tác giả thể hiện sự vất vả, khó khăn vì thời tiết khắc nghiệt của người dân nơi thôn xóm:
Tiếng gàu vẹt đáy giếng thơi
Nắng thư thể đất và trời ghét nhau
Gió hoang nung rạn mặt gàu
Búp sen vừa nhú nghẽn màu bùn đen.
(Tiếng gàu)
Quê hương đất nước trong ông còn là hình ảnh đèo Ngang:
Nhìn xuống đèo Ngang vẫn cảnh chiều
Xóm làng rải rác mái tranh xiêu
Biển không chài lưới, không thuyền bến
Vẫn dáng lom khom mấy chú tiều.
Tác giả qua đèo Ngang, nơi ngày xưa Bà Huyện Thanh Quan đã dừng chân, nhìn thấy cảnh hoang vu của đèo để rồi bà không cầm lòng nổi mới viết nên bài thơ bất hủ Qua đèo Ngang. Bùi Quang Thanh cũng dừng chân tại đây. Ông nhớ về Bà Huyện, về lời thơ của bà để rồi nhìn ra cảnh đèo Ngang vẫn không khác xưa, vẫn hoang sơ nghèo đói:
Đèo tiếp đèo cao với biển khơi
Thời gian hóa đá tưởng ngừng trôi
Ôi lời khắc khoải xưa bà Huyện
Sao chốn hoang sơ chửa đổi dời.
( Qua đèo Ngang)
Quê hương trong tâm khảm nhà thơ còn là một chút qùa quê Hà Tĩnh. Nhắc đến nó, không ai đi xa không nhớ:
Phải là lạc cúc anh ơi
Để nguyên vỏ lụa ủ nồi đất nung
Phải là mật mía đất rừng
Ủ màu cánh gián, nấu chừng se keo
Đũa tre tay khuấy thật đều
Lửa than không để ngọn reo đáy nồi.
(Quà quê)
Với nhà thơ, quê hương là tiếng đồng vọng, là áo tơi của mẹ, của bà khi ra đồng gặt lúa, làm khoai, là bông lúa đã đến thời kì “đỏ đuôi” báo hiệu một mùa gặt bội thu sắp đến:
Lúa đỏ đuôi rồi mẹ ơi
Mật ong đong vàng lũng núi
Chiều kéo nhau đi vời vợi
Mây ngà sau nón rưng rưng.
( Tiếng đồng)
Hình ảnh quê hương còn là ruộng lúa, bờ khoai, con sông Cày, là mùa bưởi chín, là mắt huyền của người con gái xưa:
Chập chờn ruộng lúa bờ khoai
Sông Cày gợi về quê kiểng
Tóc em gợn mùa bưởi chín
Mắt huyền lúng liếng sông đêm.
( Đò dọc sông đêm)
Đó còn là sự đằm nặng, đôn hậu nhưng cũng tươi non; là cơn bão của quê hương đi vào ông như Dòng sông chắt chiu từ cát mặn. Để rồi hồn thơ Gom về từng hạt phù sa (Chiều cửa Nhượng). Quê hương trong lòng tác giả còn là sự sống của con người, của làng xóm láng giềng mặc dù cuộc sống còn nghèo nhưng họ luôn vui vẻ đoàn kết gắn bó với nhau:
Đất nghèo hạt chữ câu cơm
Áo nâu lộn trái đỡ sờn nắng mưa
Lát bầu héo ủ thành dưa
Mít non làm nhút, khế chua làm quà
Bát chè xanh nóng xuýt xoa
Đêm thanh trăng tỏ cả nhà ới nhau.
( Viết từ những câu ca)
Đó còn là sự nhớ thương, day dứt khôn nguôi khi xa quê, nhớ quê. Tác giả nhớ về núi Thiên Nhẫn, về bến Tam Soa – hai địa danh nổi tiếng của quê hương ông:
Đâu sóng tràng giang buồn gờn gợn
Trùng trùng Thiên Nhẫn, biếc Tam Soa
Nhớ quê, xa quê, nhà thơ thốt lên:
Phù vân! Không lẽ phù vân hết
Sao chẳng nơi đâu sánh quê nhà?
( Với người tiễn bạn về quê)
Cảm hứng về quê hương, đất nước là sự thảng thốt, giật mình vì sự lãng quên quá khứ, lãng quên một thời vàng son đau thương nhưng anh dũng của cha ông: Chẳng hiểu vì bận bịu hay vô ý thức mà tôi đánh mất dần những gì còn lại của tổ tiên, đánh mất một thời vinh quang và cay đắng. Để lúc chiêm ngưỡng các tượng đài, lướt qua nhà thờ truyền thống, tôi trầm trồ thán phục như trước các chiến tích siêu nhân... ( Lay thức). Đau đáu về quê hương, đất nước, ông bộc bạch:... Tôi là tôi thôi: lu mờ hờ hững nhỏ nhoi nếu sôi động chút nào - có chăng - cũng vì miếng ăn tấm mặc, cũng vì gió lay vườn thức trong xôn xao chợ búa kiếp người. Tôi là tôi thôi: kẻ mắc nợ trần gian như chúa Chổm - nợ bầu trời một ngụm ô-xy, nợ cánh đồng một bông lúa chín, nợ mẹ với đôi bầu sữa lép với câu đò đưa bên cánh võng ngọt ngào. Tôi nợ giọt mồ hôi trượt qua nếp hằn trên trán bố. Nợ cây đa đầu làng chìa râu cho tôi đu võng tuổi thơ (Lay thức).
Quê hương Hà Tĩnh của ông còn nơi sử sách thường gọi "địa linh nhân kiệt", mảnh đất đẹp đẽ giàu hào khí bởi:
Nước trăm mạch trăm sông
Chảy xuôi cùng một hướng
Thế hổ chầu long cuộn
Cảnh gấm dệt vóc thêu
(Huyền thoại núi Hồng)
Trong thơ Bùi Quang Thanh cảm hứng về quê hương đất nước được nhà thơ thể hiện khá rõ nét và nhiều cung bậc khác nhau: đặc sản quê nhà, yêu thương, mong nhớ, dằn vặt, ân hận, lay thức... Ở cung bậc nào nhà thơ cũng trải lòng mình và thể hiện rất sâu sắc. Từ lòng tự hào về vẻ đẹp quê hương, món quà đặc sản kẹo cu đơ nổi tiếng, từ cái nghèo nơi cảnh đèo Ngang tới sự ân hận của một người con khi cảm thấy mình bất lực chưa làm được gì cho quê hương đất nước, những tình cảm ấy khiến Bùi Quang Thanh luôn canh cánh, day dứt...
2.1.2. Cảm hứng về truyền thống văn hóa - lịch sử
Cảm hứng về truyền thống văn hóa – lịch sử của quê hương đất nước trong thơ Bùi Quang Thanh cũng có nhiều biểu hiện khác nhau. Con người Việt Nam hiện đại không cắt đứt quá khứ. Họ tìm ở đấy nhiều bài học. Nhiều tứ thơ liên tưởng đến những huyền thoại xa xưa, đến lịch sử cha ông cũng như những chiến tích thời kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong cảm nhận của mình, Bùi Quang Thanh tìm thấy trong lịch sử những bài học quý giá, từ đây tìm thấy những bài học tự răn. Từ cuộc đời thằng Cuội, ông nhận thấy Đời dài vô nghĩa nên ai cùng gọi là thằng. Hoặc ở bài Không đề: Có? Cậy tài ba chưa tại bốn/ Không! Mừng bạc tóc chẳng bạc tâm. Lời dặn tưởng rất cũ nhưng cũng có ý nghĩa mới mẻ trong cuộc sống “sôi nổi thị trường” hiện nay.
Về Cửa Nhượng, nhà thơ chạnh nhớ đến Thiên Cầm với Đảo Én, Hòn Bớc và những chiến công của cha ông thời chống Mỹ:
Em đưa tôi về Cửa Nhượng
Con đường rải đá lô nhô
Buổi chiều gió yên biển lặng
Sao lòng tôi sóng vỗ bờ
Đảo Én trầm tư đứng gác
Bao năm tóc trắng mây trời
Thiên Cầm gửi thêm Hòn Bớc
Giữ miền sóng gió chơi vơi
( Chiều cửa Nhượng)
Sự gợi nhớ ấy còn là “Những oan trái trong lịch sử tác giả cũng trình bày với một cảm nhận mới. Đứng ở đền Đế Bà nghe kể lại câu chuyện xưa Chúa Trịnh Giang qua vùng này để lại một mối tình oan trái, tác giả chạnh thương một kiếp hồng nhan” [38, 193]:
Nỗi đau hơn cả Thúy Kiều
Oan so Thị Kính gấp nhiều lần hơn
Nghẽn lòng chuyện cũ Độc Sơn
Càng thương phận liễu, càng hờn Chúa si
Vẫn còn đây Đấng Từ Bi
Sao người nỡ mặc nữ nhi một mình?
Ba lần nổi, bốn lần chìm
Chảo thừng, cối đá hận tình khôn nguôi
Duyên đâu oan nghiệt hỡi người
Nghìn năm sóng trắng xõa rồi lại khơi.
(Thắp hương đền Đế Bà)
(Đó là câu chuyện chúa Trịnh Giang hạ du qua vùng Độc Sơn ăn nằm với người con gái họ Đào về sau cô gái có thai bị gièm pha, lời khai của cô bị xem là yêu ngôn, theo tục lệ cô bị cột đá nhấn chìm đáy sông).
Trong Huyền thoại núi Hồng Bùi Quang Thanh đã tự hào về lịch sử quê hương của mình: Việt Thường dẫu chìm vào lòng đất/ Khí thiêng sông núi càng thiêng/ Đất này địa linh nhân kiệt/ Đất này muối mặn gừng cay. Nhà thơ tự hứa với quá khứ hào hùng của cha ông:
Chắp tay con vái tổ tiên
Ngực trần dám chịu hòn tên hai bề
Cũng vì yêu đất thương quê
Nghĩa nhân ban phát, gom về bão giông
Ăn đầu gió, ngó cuối sông
Giọng trầm âm đục mà lòng thanh cao...
(Viết từ những câu ca)
Đồng thời, ông khẳng định vị trí đầu sóng ngọn gió của quê hương, con người nơi đây: Con người nơi đây chịu phần bão giông cho mình, ban phát nhân nghĩa cho người, con người nơi đây, hình thức thô mộc nhưng tâm hồn thanh cao. Đó là con người xứ Nghệ cũng là con người Việt Nam trong trường kì lịch sử. Nói về lịch sử, tác giả thường viết những vần thơ ca ngợi, sảng khoái, tự hào:
Mẹ nhịn nhục nuôi ta thành tráng sĩ
Ta vươn vai làm cột trụ chống trời
Con Rồng Đen từ sông Cày, cửa Sót
Thua kém gì Thiên tử? Mẹ yêu ơi!
(Mai Hắc Đế)
Tiếng quốc xẻng đào chiến hào tiếp cận
Ôi hoành tráng những ngày đêm “vây lấn”
Cánh tay các anh siết chặt kẻ thù
Trận quyết chiến này âm hưởng đến thiên thu...
(Bên tượng đài anh hùng Phan Đình Giót)
Nhớ về quá khứ, nhà thơ nhớ về các liệt sĩ, về những liệt sĩ thanh niên xung phong ở Phong Nha – Kẻ Bàng:Em lẫn vào đâu sau xanh mướt rừng cây
Sau động thẳm hang sâu huyền ảo
Sau những cờ xe, mặt người, sắc áo
Ôi lung linh! Em cao vút tượng đài...
(Đêm pháo hoa trên sông Son)
Ở bài thơ Lời ru đồng đội, Bùi Quang Thanh cũng bày tỏ lòng mình về các liệt sĩ không tên không tuổi. Ông đến thăm các bạn của mình và ru đồng đội bằng lời ru nhè nhẹ, thầm nói với bạn hãy yên lòng cho “hồn thảnh thơi” vì không còn cảnh “đạn dập bom dồn” nữa:
Ngủ đi giấc ngủ ngàn xưa
Lời ru nhè nhẹ. Rừng dừa gió xao
Trập trùng lũng thấp đồi cao
Qua truông có nhớ ngày nào vượt truông
Chẳng còn đạn dập bom dồn
Xin đừng mộng mị cho hồn thảnh thơi
Ngủ đi! Nào, ngủ - à ơi...
Ngọt ngào là tiếng ru hời mẹ xưa...
Quá khứ với Bùi Quang Thanh còn là nỗi bơ vơ tiếc nuối khi tìm về chốn cũ và người ấy không còn: Người ơi thủa ấy xa rồi/ Giật mình ngọn gió nhắc lời ngày xưa.(Gửi ngày xưa)
Với Bùi Quang Thanh, cảm hứng của ông còn hướng về các tiền nhân. Bên cạnh niềm tự hào là một nỗi day dứt vì sự lãng quên, sự tắc trách của hiện tại với tiền nhân, với thi hào Nguyễn Du:
Cái cũ thì hóa đá
Cái mới chưa ai xây
Khói lên trời cứ bay
Lệ nàng Kiều vẫn nhỏ
Rượu tràn ly ngoài phố
Mồ thi nhân thiếu hoa...
(Ghi ở nhà lưu niệm Nguyễn Du)
Một đại thi hào của dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới nhưng người đời lại bạc với ông. Phải chăng chính sự vô tình, bạc bẽo ấy của người đời vẫn làm cho nàng Kiều tới nay đang còn nhỏ lệ? Hay ở bài Điệp khúc dã tràng, Bùi Quang Thanh lật lại quá khứ tìm cho mình một cảm xúc trong công việc tưởng như vô nghĩa của dã tràng. Kỉ niệm 10 năm ngày mất của nhà thơ Xuân Diệu, Bùi Quang Thanh nhớ về tác giả “một đời yêu – một đời thơ” với lòng yêu mến, tiếc thương:
Mười năm vắng bóng người thơ
Sông Nghèn ngưng giữa đôi bờ thời gian
Lời yêu níu nghẽn phím đàn
Bao nhiêu rặng liễu chịu tang một người...
(Một đời yêu – Một đời thơ)
Không chỉ bạn đọc nhớ về Xuân Diệu mà cả con sông Nghèn – nơi chảy qua làng Trảo Nha, quê hương của cố thi sĩ Xuân Diệu cũng như đang “ngưng giữa đôi bờ thời gian”. Bao rặng liễu vẫn như đang khóc thương, chịu tang cho nhà thơ tình thế kỉ XX ấy. Và khi đi lễ chùa Hương Tích, nhà thơ nhớ về nàng Diệu Thiện...
Người ngủ chùa xuôi núi
Miệng mỉm cười: “A Di...”
Này ơi! Nàng Diệu Thiện
Đã ban cho những gì?
Mà má hường da phấn
Mà môi thắm như son
Miếng trầu nơi cửa phật
Gió thoảng thơm nồng nàn...
(Lên chùa Hương qua đập nhà Đờng)
Trong lễ hội Chân Tiên, Bùi Quang Thanh như lạc vào cõi mộng với bao nhiêu cảnh đẹp: những gốc thông già, đôi đền Tiên, nến đỏ, sương mờ...: Nào! Đi lên. Men qua những gốc thông già mành tơ buông rủ, ngôi đền Tiên nằm giữa mộng mơ. Người chen vai trong nến đỏ sương mờ, lá cờ Phật tung bay vừa gần vừa ảo. Thắp nén hương trước những gì xưa cũ, trong lòng thường ước cảnh ngày mai – vẫn đá, vẫn cây, vẫn dấu tích, vẫn người, những tiên cảnh thêm bàn tay độ thế...
Với thánh địa Mỹ Sơn, Bùi Quang Thanh cảm nhận cái đẹp tuyệt mĩ - thành quả ngày xưa cha ông ta để lại:
...Nghe âm âm trong thăm thẳm non ngàn
Trong đất sâu
Trên mây xanh
Trong thâm u huyền bí
Một Mỹ Sơn – cái đẹp là tuyệt mĩ
Một mạch nguồn non nước chảy không nguôi.
(Mỹ Sơn)
Niềm tự hào về dân tộc, sự gắn bó cũng như sự am hiểu sâu sắc đối với quê hương giúp nhà thơ viết nên những câu thơ mộc mạc mà chứa đựng triết lí sâu xa về nỗi đau... Đó chính là “sự minh triết” về lịch sử của dân tộc Việt qua ngàn năm dựng và giữ nước soi rọi cả hôm nay và mai sau, “Dẫu vậy, qúa khứ trong thơ Bùi Quang Thanh không chỉ đem lại niềm tự hào, lạc quan mà còn đem lại cho con người những bài học đắng cay, thất bại. Bài học về Hồ Quý Ly là một thể hiện khá sáng tạo của tác giả: " Một ngựa một người chạy ào ra biển cả/ Sao nhà vua không chạy vào lòng dân/ ...Thời đã thế biết làm sao khác được/ Có bại Hồ Quý Ly mới có Lê Thái Tổ anh hùng/ Nguyễn Phi Khanh bị đày ra ải Bắc/ Nguyễn Trãi sau này mới biết cậy sức dân” [38, 195].
2.1.3. Cảm hứng về chiến tranh và người lính cách mạng
Là một người lính vào sinh ra tử, chứng kiến biết bao nhiêu đồng đội của mình ngã xuống, cảm xúc về chiến tranh và người lính cách mạng như mạch nước nguồn tuôn chảy khôn cùng trong thơ Bùi Quang Thanh và tạo được những ấn tượng bền lâu trong cảm nhận độc giả.
Chiến tranh – là đau thương, mất mát, hi sinh,… Tại địa điểm Ngã Ba Đồng Lộc – nơi giao thông huyết mạch của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ, những cô gái chàng trai tuổi mười bảy, đôi mươi làm nhiệm vụ san lấp hỗ bom cho xe thông tuyến - một công việc vô cùng nguy hiểm, luôn đối mặt với “thần chết”. Ranh giới giữa sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc không làm cho người chiến sĩ lái xe gạt bom ra khỏi đường nhụt chí chút nào. Người lính can trường vượt qua mọi nguy hiểm cho xe thông tuyến:
Gạt quả bom ra khỏi tim đường
Đẩy thần chết đến ngoài tầm nguy hiểm
Anh xỉu xuống trong tiếng hò thông tuyến
Có cặp mắt vừa khóc vừa cười của cô gái sát môi anh.
(Đối mặt với tử thần)
Khi anh gạt được quả bom ra khỏi tim đường, sự nguy hiểm đã không còn, anh “xỉu xuống”, đồng đội reo hò thành quả của anh, vui mừng vì anh đã qua cơn nguy hiểm. Đặc biệt có cô gái vừa khóc vừa cười xúc động đến bên anh khi anh làm xong nhiệm vụ xuất sắc mà không việc gì… Viết về chiến tranh, Bùi Quang Thanh không hình tượng hóa, không sử thi hóa nó, mà nhìn thẳng vào sự thật, vào nỗi đỗi đau, mất mát:
Như mông lung cuối chân trời
Các con bé bỏng mải chơi quên về
Như nao nao giữa chiều hè
“À ơi”...tiếng mẹ - tiếng ve khản rồi
Tay già run rẩy bờ môi
Nỗi đau lòng mẹ sau thời chiến tranh.
(Nỗi đau lòng mẹ)
Chiến tranh là hi sinh, mất mát. Bao nhiêu chiến sĩ, thanh niên xung phong ra đi không trở về với gia đình, người thân. Họ đã ngã xuống cho đất nước đứng lên:Quãng mẹ dìu gừng cay muối mặn
Quãng tự thân đồng đội song hành
Quãng số phận ngoái tìm bè bạn
Biết bao người thăm thẳm trùng xanh...
(Tự khúc)
Chiến tranh trong thơ ông còn là sự đau đớn tột cùng khi bà mẹ tiễn con, ngóng con trở về giờ nơi ấy đã trở thành tượng đài chiến thắng: Nơi Mẹ tiễn con đi – nơi Mẹ ngóng con về - nơi đồng vọng. Sừng sững tượng đài chiến thắng – đìu hiu dáng mẹ lưng còng. Sao con là ráng mây hun hút cuối tầm, con là ngọn buốt thổi phơ thêm mái tóc? (Lời hương khói). Hình ảnh đối lập, làm bật lên một nỗi đau thấu tận tâm can. Trong bài thơ: Đêm A Lưới, Bùi Quang Thanh không hề cường điệu hóa sự mất mát hi sinh. Từ Bắc đến Nam, đâu đâu cũng có nghĩa trang liệt sĩ, hàng chục ngàn ngôi mộ nằm bên nhau trắng lóa. Đó là nỗi đau, nỗi đau thấm sâu vào đất, dưới những nấm mồ, mãi cứa vào lòng người. Người lính ra đi chiến đấu khi còn trẻ tuổi, nhưng khi đồng đội, người thân đón về chỉ còn lại “là đất là đai”:
Ngày ra đi con là măng là sữa
Giờ con về con là đất là đai
Hạt máu mẹ thấm vào rừng biên giới
Hoa quế thơm – hoa trẩu trắng lưng trời...
(Đêm A Lưới)
Đứa con của mẹ, hạt máu của mẹ đã thấm vào đất lẫn trong quế thơm, trong hoa trẩu, là mạch nguồn nuôi lớn đất rừng. Hình ảnh người lính anh dũng trên chiến trường còn được nhà thơ thể hiện ở hình tượng Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai:
Khi lồng ngực Anh ấp trùm lên hỏa điểm
Súng giặc nghẽn. Đồng đội Anh xông đến ...
Tổ quốc bật lên khúc khải hoàn
Tràn ngập đỉnh đồi A1, Him Lam...
(Bên tượng đài Anh hùng Phan Đình Giót)
Đó là những người anh hùng ngã xuống, “không tên, không địa chỉ”, mãi nằm lại với rừng sâu, với đất nâu:
Bao năm bóng xế trăng chùng
Bao năm đơn lẻ bạn cùng đất nâu
Rễ cây thay tóc trên đầu
Bạn đau mối đốt, mình rầu cỏ ăn
Hai thằng hai nửa tấm tăng
Vội vàng đồng đội đặt nằm cạnh nhau
(Lời ru đồng đội)
Chiến tranh đã qua lâu rồi nhưng mỗi khi nghĩ về các bạn của mình, nhà thơ không khỏi ngậm ngùi. Bạn của mình giờ đây đã bị cỏ ăn và làm mồi cho mối. Những người còn sống tiếp tục chuyển hướng chiến đấu, để lại hai ngôi mộ cô đơn, lạnh lẽo, buồn vắng. Khói hương không có. Lá rừng rơi đã lấp lối đi. Họ đành “nín câm” đợi mòn mỏi tiếng bước chân của bạn bè đến:
Chiến trường chuyển hướng về đâu
Đêm dài dằng dặc rừng sâu hai mồ.
Khói hương hun hút đợi chờ
Lá rơi lấp lối sương mờ chốn mong
Ngặt thưa tiếng súng xa dần
Nín câm đợi tiếng bước chân bạn bè.
(Lời ru đồng đội)
Những câu thơ thật xúc động đau xót biết chừng nào. Nhớ về nữ liệt sĩ Võ Thị Tần, một trong mười cô gái ở Ngã Ba Đồng Lộc, tác giả khai thác lá thư tình của chị. Lá thư ấy hiện vẫn còn được lưu trữ ở khu di tích Ngã Ba Đồng Lộc như một chiến tích, một bằng chứng về một thời:
Chị xa lắm rồi những lớp đất nâu
Cỏ và hoa đan đầy mộ chí
Chỗ ngày xưa bom vùi Mười Chị
Hậu thế xòe hoa những tượng đài
Chỗ ngày xưa chị run nét bút
Thư – thành tài sản của hôm nay
(Tình thư)
Nơi ngày xưa các chị san lấp hố bom và cũng là nơi các chị bị bom vùi dập. Ngày nay thành tượng đài để biết ơn, nghi nhớ công lao các chị. Lá thư ngày ấy chị Tần “run nét bút” để bây giờ thành tài sản quý của hậu thế. Lá thư đã góp phần làm nên chiến tích hào hùng của thế hệ bảo vệ đất nước trong kháng chiến chống Mĩ. Trong bài thơ Hà ơi, Bùi Quang Thanh tâm sự: “Mới chớm hè mà đất trời Đồng lộc đã khô rang, hơi nóng từ đất đai và mộ chí bốc lên hừng hực. Đốt nhang ở đài tưởng niệm rồi, chúng tôi mỗi người một bó hương đi cắm từng phần mộ. Tôi tìm đến mộ Võ Thị Hà, cô em út của tiểu đội hi sinh khi em vừa tròn 17 tuổi để cắm trước. Mộ Hà nằm ngoài cùng bên trái hàng thứ hai. Hình như tiểu đội trưởng Võ Thị Tần đã cố ý sắp xếp cô em út của tiểu đội ra phía sau để mong bớt bom đạn cho cô. Cắm hết lượt cả mộ mười cô, còn bao nhiêu hương tôi quay về mộ Hà cắm nốt và dừng lại đó khá lâu...” [53, 2]. Với sự xúc động trước mộ của một liệt sĩ trẻ tuổi, nhà thơ đã làm nên bài thơ thiêng liêng ấy. Có những khổ thơ thật xúc động: Tiểu đội dàn hai hàng ngang ngoảnh mặt xuống đường/ Hố bom Mĩ chắn ngang sâu xoáy ruột/ Chị Tần thương em không cho em đứng trước/ Lúc hi sinh – Hà ơi có nguyên lành?. Thơ về các liệt sĩ gần với lời gọi hồn da diết, đẫm chất bi thương.
Và cả những khi bay lên chín tầng mây, dưới đôi cánh máy bay giữa thanh bình mây trắng trời xanh, trong lòng nhà thơ không nguôi ngoai kí ức của cuộc chiến tranh. Khi nhìn xuống sông núi, đồng ruộng mênh mông, Bùi Quang Thanh bỗng giật mình nhận ra: Trong vời trắng lóa nghĩa trang/ Bao nhiêu đồng đội xếp hàng vô danh/ Trường Sơn hai mái xanh xanh/ Trăm ngàn vết sẹo ngỡ lành lại đau.(Viết giữa lưng chừng).
Cảm hứng về người lính không chỉ trong chiến tranh, trong bom rơi đạn lửa, trong sự nguy hiểm giữa ranh giới mong manh sự sống và cái chết, trong hi sinh mất mát, Bùi Quang Thanh còn viết về người lính giữa thời bình. Giặc tan. Những người lính lái xe tăng đi tìm đồng đội, tìm thủ trưởng cũ của mình. Họ gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Chiến tranh tàn khốc là thế, ác liệt là thế mà họ đã vượt qua tất cả. Nhưng khi gặp lại nhau, nhắc về kỉ niệm cũ, họ xúc động nghẹn ngào không thể cầm nước mắt:
Những người lính xe tăng
Đi qua chiến tranh để sống đến giờ
Hóa ra những người mau nước mắt
Là cốt lõi của rắn căng khối thép
Lại dễ mềm lòng vì một kỉ niệm bâng quơ.
(Đồng đội)
Chiến tranh đã đi qua nhưng nhiệm vụ của người lính cách mạng vẫn nặng nề. Hòa bình lập lại, những anh bộ đội cụ Hồ ra sức xây dựng quê hương làng bản. Các anh vẫn về với dân với bản để giúp dân:
Những binh nhì chưa tròn tuổi đôi mươi
Những đại tá tóc hai mùa mưa nắng
Lóng ngóng trồng cây; đạp mòn lối vắng
Tập nhảy phòn đêm lửa trại đun, ven
(Về Khe Sanh)
Từ anh binh nhì trẻ tuổi đến các đại tá trên đầu đã hai thứ tóc, tất cả sẵn sàng trồng cây, phát đường, cùng tập nhảy với bà con dân bản trong đêm lửa trại. Các anh đã sống với bà con, cùng làm, vui chơi, giúp sức, để dân không còn sốt rét, không còn những hủ tục lạc hậu: Cơn sốt rừng thôi thâm tím môi em/ Đường lên bản nối núi cao đồi thấp (Về Khe Sanh).
Cảm hứng về chiến tranh và người lính cách mạng trong thơ Bùi Quang Thanh là nỗi đau thương mất mát. Chiến tranh qua rồi, vẫn còn một dòng văn học chiến tranh âm thầm chảy. Nó tiếp tục dòng chảy của văn học kháng chiến nhưng đã được mở ra ở biên độ rộng hơn, chân thật hơn. Sự hy sinh mất mát to lớn, những góc khuất tâm hồn, những hé lộ tâm linh, những bi kịch, cả những lỗi lầm thất bại được miêu tả, phản ánh rõ nét. Có thể nói, “Bùi Quang Thanh là một trong những người cầm bút đau đáu với đề tài chiến tranh và anh đã có những bài thơ xúc động… Anh đã thành công ít nhiều ở mảng đề tài này. Đây là cảm xúc thật, cái tình - cái sự được chắt ra từ cuộc sống, là một phần dĩ vãng bi tráng mà anh đã nếm trải với tư cách là một người lính trận mạc. Thắp lên từ những hoài niệm chiến tranh, thơ Bùi Quang Thanh có lúc như nén hương dâng lên đồng đội đã hy sinh vì độc lập tự do của dân tộc.” [41, 1].
2.1.4. Cảm hứng về mẹ, về người phụ nữ, và về thiếu nhi
2.1.4.1. Cảm hứng về mẹ, về người phụ nữ
Hình ảnh người mẹ Việt Nam với truyền thống “Kiên cường, bất khuất, trung hậu, đảm đang” được miêu tả thật xúc động. Trước hết vẫn là nỗi đau khổ trong chiến tranh mà tuổi già còn phải chịu đựng. Biết bao bà mẹ có con đi chiến đấu xa và vĩnh viễn không có ngày gặp lại. Nỗi lòng riêng xót xa của người mẹ, ý thức của người mẹ nén lại những khổ đau trước trách nhiệm với cuộc đời, với đất nước, cũng như những cảm thương không cùng của tấm lòng người con đã được ghi nhận chân thành ở trong thơ.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã kết thúc bốn mươi năm, khoảng thời gian đó cũng đủ để chúng ta nhìn lại những đóng góp to lớn của một chặng đường thơ. Thơ ca chống Mỹ cứu nước, có thể xem tiếng nói thơ ca ấy bắt đầu từ nỗi buồn của một dòng sông chia cắt, một nỗi nhớ quê Nam và ít lâu sau là sức mạnh của phong trào quần chúng đấu tranh cách mạng. Cũng có thể xem tiếng thơ ca ấy thật sự bắt đầu trong không khí cả nước lên đường chống Mỹ khi kẻ thù ào ạt ném bom miền Bắc. Thơ đánh Mỹ mang nhiều phẩm chất đẹp, vừa giàu tính lý tưởng, vừa giàu chất hiện thực, có bề rộng của cuộc đời lẫn chiều sâu tâm trạng, có những tìm tòi sáng tạo trong nội dung và hình thức nghệ thuật. Nhiều thế hệ nhà thơ đã có mặt trong cuộc chiến đấu.
Cảm hứng chủ đạo trong thơ ca chống Mỹ hướng theo phương châm lớn của Bác Hồ “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Tổ quốc trong những năm tháng cả nước cùng ra trận là mối cảm nghĩ thiêng liêng của các nhà thơ. Chưa bao giờ đất nước và người mẹ lại hiện ra đẹp đẽ đến như thế. Cảm hứng chung về đất nước kết tụ lại trong hình ảnh của người mẹ Sớm chiều gánh nặng - Nhẫn nại nuôi con suốt đời im lặng, hoặc trong tư thế của những người chiến sỹ qua một Dáng đứng Việt Nam… Thơ ca chống Mỹ xây dựng được nhiều hình ảnh đẹp, chân thực sinh động về những con người anh hùng của đất nước. Có lẽ trong thơ, người mẹ chưa bao giờ được nói nhiều đến thế, người mẹ của những cuộc đời cụ thể và người mẹ tượng trưng cho đất nước.
Kẻ thù cướp của người mẹ cả những gì còn lại trong đời. Con bò lạc trong đêm, giữa vòng vây của đồn bốt giặc và tiếng gọi bò sặc sụa cơn ho của người mẹ… được Văn Lê miêu tả xúc động và xót xa. Tiếng gọi bò của người mẹ cứ vang xa nhức nhối trên những vần thơ chật hẹp mà như hiện ra cả một không gian vời vợi, hun hút trong đêm:
Pháo giặc trời xa vẫn nổ ì ầm Mẹ ơi! Không thể thấy bò đâu dù suốt đêm mẹ gọi
Đồn giặc rất xa, gió không mang tới
Con bò của mẹ giữa vòng gai
(Tiếng gọi bò)
Thông cảm sâu xa với cảnh ngộ của người mẹ lúc này cũng vẫn là người lính. Cũng vì thế mà trong tấm lòng của người lính ở chiến trường những cảm nghĩ trân trọng, yêu thương đầu tiên là dành cho mẹ. Thanh Thảo trong trường ca Những người đi tới biển đã nói về người mẹ với bao kính trọng, thương yêu. Người mẹ là nguồn sức mạnh trực tiếp nuôi dưỡng cho tình cảm của con, người mẹ là tượng trưng cho hậu phương, cho đất nước. Cho nên không gì sung sướng bằng khi được tâm sự cùng mẹ:
Cho con xin bắt đầu từ mẹ
Để nói về chúng con
Lớp tuổi hai mươi, ba mươi điệp trùng áo lính
Xanh màu áo lính
Đã từng sung sướng, đã từng nghẹn ngào
Được làm con mẹ
Được ra trận những năm đất nước mình khốc liệt.
Cái đáng kính trọng nhất ở người mẹ Việt Nam không chỉ là sự thấu hiểu những nỗi niềm của con mà mẹ còn là người đồng chí thực sự tham gia vào mọi nhiệm vụ của cách mạng. Người mẹ đào hầm nuôi giấu cán bộ, người mẹ đi đầu trong cuộc đấu tranh chính trị, cũng là người mẹ chịu mọi khổ đau vì con. Nguyễn Khoa Điềm khắc hoạ sâu sắc hình ảnh những bà mẹ dũng cảm, giàu đức hy sinh với Cái dáng đi bà mẹ Việt Nam/ Bền với đất, díu với giang san. Người mẹ ấy có mặt trong cuộc đời để yêu thương, để chịu đựng, nhưng cũng sẵn sàng tiến công lại những gì ngang trái, bất công:
Mẹ có bộ ngực tong teo dưới lần vải yếm
Giọt sữa cuối cùng mẹ đã trút cho con
Những đứa con như quả chín đeo tròn
Mẹ dâng cả hai mùa kháng chiến
Vì thế hôm nay trước đoàn người như sóng biển
Mẹ lại đưa ngực mình che hòn đạn cho con.
Dương Hương Ly khai thác được nhiều tứ thơ hay về người mẹ. Mẹ chăm sóc biết bao thương binh bộ đội nên Mẹ chẳng thế nào nhớ nổi chúng con đâu. Nhưng người lính thì tạc in bóng hình của mẹ. Người mẹ đào hầm nuôi cán bộ suốt trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ:Mẹ đào hầm từ thuở tóc còn xanh
Nay mẹ đã phơ phơ đầu bạc
Mẹ vẫn đào hầm dưới tầm đại bác
Bao đêm rồi tiếng cuốc vọng năm canh.
( Đất quê ta mênh mông)
Hình ảnh người mẹ cũng được miêu tả đậm nét trong thơ của Tố Hữu, Chế Lan Viên, Giang Nam. Tố Hữu kể chuyện về mẹ Suốt anh hùng với bao trân trọng yêu thương. Chế Lan Viên suy nghĩ về làm mẹ ở Việt Nam, người mẹ ngoài bao nỗi lo toan còn phải dạy cho con biết xuống hầm, dạy con biết yêu thương và chiến đấu. Hình ảnh người mẹ trong thơ là một hình tượng đẹp vừa gần gũi vừa thiêng liêng.
Bên cạnh người mẹ, hình ảnh các chị cũng đi vào thơ với vẻ đẹp duyên dáng và kiên nghị. Cuộc kháng chiến chống Mỹ đã huy động một lực lượng lớn phụ nữ tham gia vào công việc chiến đấu và xây dựng đất nước. Biết bao phụ nữ đã có mặt trên các cung đường đảm bảo cho giao thông thông suốt. Hình ảnh cô gái giao liên đẹp và duyên dáng trong thơ Lê Anh Xuân, Dương Hương Ly. Đó là cô gái của quê hương và cũng là người con gái của dân tộc và thời đại. Hàng ngàn cô gái đã đến với Trường Sơn. Họ không tiếc tuổi thanh xuân và sẵn sàng biết hy sinh cuộc sống riêng cho dân tộc. Những người con gái thuỳ mỵ, duyên dáng đáng yêu, dũng cảm, gan góc trước kẻ thù. Lâm Thị Mỹ Dạ viết Khoảng trời và hố bom ca ngợi tấm gương cao đẹp của cô gái thanh niên xung phong. Người con gái trong một tình thế hiểm nghèo đã hút bom về phía mình để cứu cả đoàn xe. Các cô gái bước vào cuộc chiến đấu của dân tộc như đi trẩy hội với, tiếng hát át tiếng bom, cũng tinh nghịch, duyên dáng và đáng yêu đó là nét chung của một thế hệ. Họ sống giản dị, lạc quan, chấp nhận mọi thử thách, khó khăn và hy sinh… Ngã ba Đồng Lộc là một trong những nơi giặc Mỹ đánh phá vô cùng ác liệt, trung bình một mét vuông ba quả bom lớn. Và chính nơi đây lúc 16 giờ ngày 24/7/1968, mười cô gái thanh niên xung phong đã tạc vào đất trời Hà Tĩnh và lịch sử chiến tranh chống Mỹ của dân tộc với một tầm cao bi tráng, những trang sử oai hùng:
Cúc ơi!
Tiểu đội đã về xếp một hàng ngang
Cúc ơi ! Em ở đâu không về tập hợp?
Chín bạn đã quây quần đủ hết
Nhỏ, Xuân, Hà, Hường, Hợi, Rạng, Xuân, Xanh
A trưởng Võ Thị Tần đã điểm danh
Chỉ thiếu mình em...
Cúc ơi ! Em ở đâu?
(Cúc ơi! Yến Thanh)
Thơ ca trong những năm chống Mỹ đã làm hiện lên thật đẹp hình ảnh người phụ nữ, người mẹ, người em... Họ đến với chiến trường mang theo bao kỷ niệm của tuổi thơ và những ngày đi học ở trường. Họ đi vào cuộc chiến đấu của dân tộc với tất cả niềm tự tin của những người có lý tưởng cao đẹp, luôn tươi tắn, yêu đời…
Nỗi niềm đầy ắp nhất, ấn tượng nhất trong thơ Bùi Quang Thanh là cảm hứng về mẹ. Nhà thơ đã dành hẳn một phần đáng kể ngay từ đầu tập sách, với tựa đề Dâng Mẹ. Bài thơ tự sự Hạt đắng rất thật, mang tính khái quát khá cao. Ba người lính binh nhì ngày ấy cứ thản nhiên bốc trộm lạc giống của mẹ trong những cái chum mà rang, coi đó như là một việc làm chính đáng. Chum lạc giống bị mốc mà không ai hay. Đến lúc bà mẹ bán hạt giống cho cả làng, thì không một cây nào mọc lên được. Bà mẹ ngơ ngác, lặng lẽ bỏ nghề trong sự giày vò của lương tâm mà nào bà có biết đâu, “tội lỗi” ấy là do đứa con dại dột của mình đã vô tình gieo xuống cuộc đời vốn rất là lương thiện của bà. Đứa con dại dột ấy bây giờ trở về trước ngôi mộ của mẹ, xa xót thốt lên những vần thơ xé gan, cháy ruột: Những hạt giống ấp trong chum sành đỏ
Ủ lá chuối khô nuôi giữ mầm đời
Những hạt giống trái tim già ấp ủ
Con lỗi lầm để ẩm mốc, mẹ ơi.
Chết trong mẹ niềm tin gieo hạt giống
Sống trong con hạt đắng chẳng nguôi tàn
Bao mùa lạc đời vẫn dâng sức sống
Con cúi đầu, hồn trắng một vành tang.
Ở Một thời sao lãng quên, Bùi Quang Thanh cũng viết về người mẹ, nhưng đây là một bà mẹ quen thuộc của các chiến sĩ chúng ta. Tuy bài thơ hơi dài, có tính kể lể rườm rà, thiếu đi sự cô đọng cần thiết, nhưng nó hết sức chân thành, gây được xúc động trong lòng người đọc:
Tôi còn gì để nói nữa đâu
Nỗi xúc động xen bao điều ân hận
Tôi đã sống giữa lòng dân bất tận
Cả một thời mà sao nỡ lãng quên.
Nhìn chung, cảm hứng về mẹ trong thơ Bùi Quang Thanh có cái tình chân thật, lành hiền và chân phương. Nhà thơ không quên những cô gái đã hy sinh ở Ngã ba Đồng Lộc, không quên những người đồng đội năm nào cùng chung chiến hào đánh Mỹ. Vì thế, thơ Bùi Quang Thanh cũng đầy ắp hoài niệm, đầy ắp ký ức một thời “không thể nào quên”. Có những lúc buồn lắng, ông tự nói với chính lòng mình: Phần dâng hiến rụt rè tính toán/ Ngó hầu bao không giấu nổi chút buồn/ Kịp nghèo rồi đâu đã kịp khôn/ Tôi nhá nhẩm hạt thóc rang ký ức/ Còn lại quãng đời không quên được/ Trên mây đèo Trường Sơn…
Chắc chắn, cái tâm trạng bâng khuâng, man mác buồn đó của những người lính bước ra từ chiến tranh, không phải chỉ một mình ông. Tác giả chỉ là người đại diện cho hầu như tất cả những người lính đã từng một thời lẫy lừng trên các chiến trường. Cái giá trị đích thực của bài thơ cũng chính là sự “đại diện” bất đắc dĩ ấy.
Bùi Quang Thanh có thơ ở hầu hết các đề tài: thế sự, tình yêu lứa đôi, chiến tranh... Ngay như ở mảng đề tài ngày nay không có nhiều nhà thơ quan tâm lắm, là thơ cho thiếu nhi, Bùi Quang Thanh vẫn có được những bài thơ khá thú vị cho các em. Điều đó nói lên tính nghệ sĩ và tính công dân trong thơ Bùi Quang Thanh song hành khá rõ. Ưu điểm nổi bật nhất của Bùi Quang Thanh là các bài thơ đều có tứ, giàu cảm xúc, vần điệu; và quý nhất là chúng có ý nghĩa thiết thực với người đọc.
2.1.4.2. Cảm hứng về trẻ thơ – thiếu nhi
Lâu nay văn học thiếu nhi vẫn được xem là một phần không thể thiếu trong bức tranh văn học cả nước. Từ những khúc đồng dao, từ những truyện cổ tích, truyền thuyết, thần thoại trong dân gian đến những bài thơ, truyện ngắn, truyện dài kỳ hay tiểu thuyết hiện đại, văn học thiếu nhi luôn là món ăn tinh thần bồi đắp tâm hồn cho trẻ nhỏ. Nhiều nhà văn Việt Nam đã dành trọn tâm huyết cho những sáng tác dành cho các em như Tô Hoài, Võ Quảng, Phạm Hổ, Đoàn Giỏi, Phùng Quán, Huy Cận, Nguyễn Nhật Ánh… Và nhiều tác phẩm đã sống mãi với tuổi thơ của bao nhiêu thế hệ trẻ em Việt Nam như Dế Mèn phiêu lưu ký, Quê nội, Dất rừng phương Nam, Tuổi thơ dữ dội. Vai trò quan trọng của văn học thiếu nhi và thành tựu của những lớp nhà văn đi trước trong lĩnh vực viết cho thiếu nhi là một điều không thể phủ nhận.
Văn học thiếu nhi Hà Tĩnh cũng không nằm ngoài quỹ đạo văn học thiếu nhi cả nước. Nhìn một cách tổng quát có thể thấy văn học thiếu nhi Hà Tĩnh khá phong phú về nội dung và đa dạng về giọng điệu cũng như bút pháp thể hiện. Ở mảng thơ thiếu nhi có đến gần một nửa số hội viên chuyên ngành thơ có sáng tác cho thiếu nhi và mỗi tác giả đều thể hiện những nét riêng trong sáng tác của mình. Xuân Hoài là một trong những nhà thơ có vai trò lớn trong việc xây dựng nền văn học nghệ thuật Hà Tĩnh từ những ngày đầu tái lập tỉnh. Một phần lớn trong sáng tác của ông chính là thơ thiếu nhi. Xuân Hoài có hai tập thơ viết cho thiếu nhi là Sen lên (NXB Kim Đồng, 1985) và Những cây dù đỏ (NXB Kim Đồng, 1992). Trong những tập thơ thiếu nhi của mình, Xuân Hoài luôn thể hiện một quan niệm đúng đắn về thơ ca viết cho các em. Theo ông, thơ viết cho thiếu nhi không chỉ dừng lại ở việc giúp các em phát hiện được sự tồn tại đầy lý thú của những sự vật xung quanh mình mà phải thông qua những hình ảnh sinh động của thơ ca để giáo dục thẩm mỹ cho các em. Xuân Hoài đã tìm được một cách nói nhỏ nhẹ, tình cảm và những hình ảnh có sức lay động tâm hồn tuổi thơ. Với những bài thơ như: Chùm hoa dẻ, Sen lên, Trước bài toán khó, Đèn trong phố, Những cây dù đỏ… nhà thơ không chỉ khơi dậy cho các em những rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên, của cuộc sống mà còn hướng các em tới những việc làm đẹp đẽ, lý thú.
Có thể nói làm thơ cho thiếu nhi không phải là một điều đơn giản. Một nhà thơ có thể làm thơ hay cho người lớn nhưng chưa hẳn đã có thơ hay cho thiếu nhi. Vì lẽ đó thật là đáng quý khi ở Hà Tĩnh lại có nhiều người làm thơ cho thiếu nhi đến vậy. Nhà thơ Lê Duy Phương có đến 4 tập thơ dành cho các em (Chùm nhãn ngọt, Cây hoa vừa lên, Thả diều, Như anh dắt em) và sau này những sáng tác cho thiếu nhi ấy được ông tập hợp trong cuốn Thơ thiếu nhi Lê Duy Phương. Trong thơ thiếu nhi của Lê Duy Phương, người đọc thấy thấp thoáng hình ảnh của một người cha, một người ông thật nhân hậu và gần gũi. Thơ của ông mộc mạc, chân chất nhưng trên hết cả vẫn là tiếng nói yêu thương, là nguồn tình cảm dồi dào, sâu lắng. Trong tình cảm gia đình có bao điều giản dị, bình thường nhưng được nhà thơ nói lên thật xúc động, thấm thía: Con nhìn tóc bố/ Bạc trắng cả rồi/ Nào con đã hiểu/ Vì sao bố ơi/ Bố chưa kịp nói/ Mẹ đã trả lời/ - Tóc xanh của bố/ Dành cho con rồi (Dành cho con). Và dường như sau mỗi tập thơ của Lê Duy Phương người đọc đều cảm nhận được một thông điệp được ẩn giấu đằng sau từng câu chữ: Hãy yêu thương và bảo vệ con trẻ, hãy sống với trẻ thơ bằng tất cả tấm lòng chân thật.
Trong đội ngũ những người làm thơ cho thiếu nhi ở Hà Tĩnh có những tác giả làm nhiều thơ cho thiếu nhi tuy chưa in thành sách nhưng tác phẩm của họ tạo được dấu ấn sâu đậm với bạn đọc. Đó là Nguyễn Ngọc Phú, Phan Thế Cải, Bùi Quang Thanh. Nguyễn Ngọc Phú có nhiều bài thơ hay cho thiếu nhi như Hạt, Cây rơm, Mắt bão, Cơn mưa mặc áo, Mùa chim, Đánh giặc giả…và nhiều bài trong số đó đã được đưa vào Tuyển thơ thiếu nhi Việt Nam. Cái nồng ấm của tình cảm, cái mộc mạc mà sống động của hình ảnh, sự bất ngờ đến kỳ thú của những liên tưởng, những so sánh làm nên vẻ đẹp của thơ thiếu nhi Nguyễn Ngọc Phú. Nhà thơ quan sát thiên nhiên, tạo vật bằng đôi mắt tươi non của trẻ thơ, phát hiện được trong đó bao nhiêu điều lý thú, bao nhiêu trìu mến, ngọt ngào: Cây rơm không có lá/ Nở một giấc mơ vàng/ Cọng rơm gầy gò quá/ Nuôi chín bao mùa màng/ Ngày ủ bóng tre già/ Đếm quây thành nệm ấm/ Cho giấc mơ của em/ Thơm mật ong đồng ruộng (Cây rơm). Thơ thiếu nhi của Phan Thế Cải lại thấm đẫm chất hồn hậu, nhân ái, đằm thắm (Hoa gạo, Chiếc võng của bố, Tiếng kẻng cô nuôi cá). Và dường như mỗi một sự vật nhỏ bé trong thơ thiếu nhi của ông đều chứa đựng những tình cảm lớn lao về quê hương, Tổ quốc. Đó là bài học về giá trị của cuộc sống, của lao động trong Con mèo mun, Chú gà bạch, bài học về lòng chân thật, về cái giá phải trả của sự háo danh, về sự nỗ lực của bản thân trong Bệ nhảy của châu chấu xanh, bài học về tình bạn, về lòng yêu thương trong Chim bã trầu và cây phong lá đỏ… Mỗi câu chuyện là mỗi bài học sâu sắc giúp các em hiểu thêm về ý nghĩa của cuộc sống, về cách ứng xử, cách sống sao cho đẹp, cho có ích và chúng được chuyển đến cho các em qua những lời kể giàu cảm xúc, qua một thứ ngôn ngữ truyện tinh tế và đầy dụng công của chính tác giả...
Nhà thơ Bùi Quang Thanh là một trong số ít nhà thơ vừa viết thơ hay cho người lớn lại vừa làm thơ hay cho thiếu nhi. Viết về thiếu nhi, nhà thơ đã dùng những hình ảnh gần gũi, sinh động, ý thơ hóm hỉnh, khơi gợi những điều mới mẻ, trong sáng, cao thượng ở các em. Ta có thể bắt gặp những câu chuyện đáng yêu của chú gà trống tía suốt ngày đi đá nhau và luôn về muộn khiến cho:
Mấy chị mái tơ tao tác
Trống choai tìm bạn thầm thì
Đến nỗi:
Vện con vào ra thấp thỏm
Bé bươn bả kiếm khắp vườn
Chính vì thế, khi Trống Tía về, áo quần không gọn gàng đẹp đẽ như trước, thay vào đó là mặt bùn và còn ra oai nữa chứ. Và nó đã bị bà mắng:
Bà mắng: “Hư thân lắm nhé
Suốt ngày chỉ đi đá nhau!”
Trống tía như chừng xấu hổ
Mào sơn tím một mảng đầu.
Hầu như bài thơ nào viết cho thiếu nhi cũng hiện ra hết sức ngộ nghĩnh, đáng yêu: Đó là Chuyện về mười ngón tay. Tác giả kể câu chuyện về mười anh em ngón tay cùng giống nhau, cùng đoàn kết yêu thương, che chở, động viên nhau...
Mười anh em nhà nọ
Mẹ sinh cùng một lần
Hai anh lớn ngắn chân
Đôi út người nhỏ thó.
Bùi Quang Thanh đã cho chúng ta thấy mười chàng trai ngón tay ấy khi vui thì: Thành pháo nổ sấm ran, còn khi buồn bực: Họ tìm nhau an ủi, khi có kẻ thù, họ kết thành đôi: Năm người như mười người/ Mười người như là một. Còn khi ngoại giao thì rất tuyệt vời: Một cú bắt tay thôi / Là hòa bình nhân ái . Cuối cùng tác giả kết luận:
Dẫu phân chia phải trái
Chẳng so tính hơn thua
Sống gắn bó thuận hòa
Bởi mười chàng là một.
Bài thơ không chỉ đơn thuần nói về các ngón tay rất quen thuộc với các em thiếu nhi mà qua đó, nhà thơ muốn nói về tình thương yêu nhau, sự đoàn kết, gắn bó keo sơn với nhau giữa anh em, giữa mọi người với nhau. Dưới con mắt “trẻ thơ”, tác giả đã nhân cách hóa các con vật, sự vật, đồ dùng rất đáng yêu. Trong bài Ngài ốc sên, thấy hiện lên một “ngài” ốc sên với hình dáng, đặc điểm:
Đội nhà lối cỏ mon men
Gặp ai cũng vác ăng-ten ra chào
Trèo lên cây chuối thật cao
Chán chê, tụt xuống bờ rào nhặt rau
Mồm đi trước, nhà lê sau
Sợ chi trời đất mưa lâu nắng dài
Khề khà.Chợt chú ếch choai
Vỗ lưng một cái, râu “ngài” co luôn.
Hình ảnh mặt trời được tác giả gọi là “lão trời”. Một sự liên tưởng vô cùng thú vị:
Thấy bà em mặc áo tơi
Đi trong mưa gió mà người vẫn khô
Trời bèn xuống chợ hỏi dò
Tìm mua cái áo vừa to vừa dài
Dưng mà chẳng có một ai
Có cái áo dài cho lão Trời ưa.
Tác giả so sánh áo tơi của bà với đám mây bồng bềnh trên trời cao kia: bà mặc áo tơi và ông Trời cũng mặc áo mây:
Trời về vơ nắm sợi mưa
Sai năm cậu Gió đi cùng lũ Mây
Mây xanh trắng, Mây mỏng dày
Lão khâu, lão buộc cả ngày mới xong
Làng ơi! Ra ngõ mà trông
Lão Trời lụng thụng chơi rông Ngân Hà.
( Lão trời cũng mặc áo tơi)
Dưới cái nhìn đa diện sắc màu, tác giả còn đưa vật vô tri như kính lão để nó có suy nghĩ, có tâm hồn và tự thấy mình có ích mà “vênh vang”:
Ba cho ngồi lên mũi
Khi đọc sách, làm thơ
Trông lão oai đáo để
Đôi mắt tròn mộng mơ
Để rồi, khi ba soi vào thì:
Lão khoe mắt lão sáng
Để chỉ đường giúp ba
Em soi vào mắt lão
Eo ơi! Xoay như là...
( Kính lão)
Thế giới trẻ thơ ngộ nghĩnh, đáng yêu còn được nhà thơ thể hiện trong những hình ảnh từ hoa đến củ của cây lạc:
Biết cây mẹ cần nhiều nắng
Nuôi cho cả nhà cùng xanh
Hoa lạc tìm nơi thanh vắng
Cháy lên vàng rực hết mình.
Tác giả lí giải việc nở hoa của lạc là để nuôi cho cả nhà cùng xanh. Nhưng rồi hoa lạc nghe lời mời rì rà của đất để:
Về đây dịu mát phù sa
Về đây – hoa ơi thành củ
Trả ơn cho người nuôi ta...”
Thế là hoa lạc tạm biệt: Trăng thanh gió mát, tạm biệt nắng đẹp trời xanh tìm vào lòng đất để trưởng thành. Ví như nó không về với đất thì hoa lạc rồi cũng tàn theo thời gian. Nó sẽ thành vô nghĩa, không mang lại ý nghĩa dẫu cho hoa có đẹp, có cháy hết mình đi chăng nữa...
Cảm hứng về thiếu nhi của Bùi Quang Thanh còn là sự vật nhỏ bé, dễ thương. Những chú Chuồn Kim và cô Mây Trắng thể hiện sự trong lành của thiên nhiên:
Có một đôi chuồn Kim
Rủ nhau ra bờ suối
Nhặt nắng vàng vương vãi
Dát lên cánh cho nhau
Chợt cô nàng Mây Trắng
Tay áo che mặt trời
Đôi Chuồn Kim ngơ ngác:
Nắng đâu rồi ? Nắng ơi!
( Nắng ơi!)
Thế giới tuổi thơ ngộ nghĩnh còn được nhà thơ thể hiện trong bài Học chữ, mỗi con vật có một đặc tính riêng, một cách “học” riêng. Con gà trống gắn liền với chữ o, dê con đi với chữ be be và bác trâu thì “Ngờ...E...Nghé à” vô cùng đáng yêu:
Gà trống thuộc mỗi chữ O
Thế mà sáng sáng gáy to nhất làng
Dê con dịch cũng rất xoàng
Bờ... E thì cứ hát tràn “Be...be”
Bác trâu nằm dưới bóng tre
Hếch mồm cười nhạt:
“Ngờ...E...Nghé à”
Nhà thơ tưởng tượng ra hình ảnh đáng yêu của nghé con khi lấy cỏ làm thành đuôi cho bằng chị bằng em. Chú ta thấy chị có thì mình cũng muốn có như chị. Đây là hình ảnh con vật nhưng qua đó cũng thể hiện được tính cách và đặc điểm của những cô bé, cậu bé:
Thấy chị Bê có đuôi dài
Phất phơ rất là điệu bộ
Nghé con vơ ngay túm cỏ
Buộc vào đuôi cụt ngo ngoe
Nhưng sau đó, chú Nghé nhà ta đã mơ mơ màng màng và trong cơn buồn ngủ đó, chú Nghé ngửi thấy mùi thơm của cỏ nên không suy nghĩ gì và đã bị mùi thơm của cỏ lôi cuốn, chú vội cho túm cỏ vào miệng mình:
Chẳng kịp nhìn lại vuông tròn
Túm cỏ đã nằm trong miệng
Và sau cú nhai đau điếng
Chỉ còn...đuôi cụt ngo ngoe.
( Đuôi cỏ)
Viết cho thiếu nhi, Bùi Quang Thanh không chỉ dừng lại ở sự ngộ nghĩnh đáng yêu của các con vật, của thiên nhiên trong lành mà còn thể hiện tình người ấm áp. Đó là nỗi nhớ về người bà thân thương của mình qua hình ảnh vòi hái. Qua đó, nhà thơ muốn thể hiện sự vất vả của người bà suốt cuộc đời tay lấm chân bùn, dãi dầu mưa nắng:
Cong cong vòi hái của bà
Lóng tre mòn vẹt những là thời gian
Dãi dầu nắng đốt mưa chan
Mồ hôi bà nhuốm óng vàng da lươn...
( Vòi hái của bà)
Cảm hứng về mẹ, về bà là cảm hứng bất tận của nhà thơ. Trong thơ viết cho thiếu nhi, nhà thơ vẫn luôn nói về bà. Hình ảnh bà đi cấy với lưng còng, áo tơi nón lá, cơi trầu, gánh mạ oằn vai nhưng bà không kêu ca buồn bực gì. Ngược lại, bà vẫn lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống, yêu công việc đồng áng. Bà cười, để lộ hàm răng đen đã bị sún một nửa:
Bà em đi cấy đồng sâu
Áo thâm thêm lớp gói trầu mặn vôi
Lạt giang thắt tó quanh người
Trông như bó mạ, bà cười: Oách không?
Răng đen sún hết nửa phần
Áo tơi nón lá phập phồng gió lay
Kẽo cà gánh mạ oằn vai
Toòng teng một cối trầu xay nửa chừng.
( Bà em đi cấy)
Tác giả nhìn hình dáng của bà với nón lá, quai nón, tấm lưng còng, áo tơi, bàn chân đất chấm bùn, dầm nước mặn mà hình dung ra Tổ quốc yêu thương. Dáng của bà là dáng hình của đất nước Việt Nam:
Đỉnh nón là cực Bắc
Mây vờn Phan Xi Phăng
Sông Hồng – chiếc quai nón
Níu núi qua đồng bằng
Tấm lưng còng miền Trung
Trường Sơn làm nón lá
( Dáng bà)
Có thể nói cảm hứng về mẹ và thiếu nhi được nhà thơ Bùi Quang Thanh thể hiện rất ấn tượng. Nó là dòng chảy tuôn trào bởi nhà thơ luôn là người con có hiếu với mẹ, luôn yêu thương, đồng cảm với trẻ em và với tất cả mọi người.
2.1.5. Tình yêu và những dăng mắc, duyên nợ tình đời, tình người...
Tình yêu là sự diệu kì. Có thể mới gặp nhau, nhìn nhau, qua cử chỉ, ánh mắt, làn môi... Bùi Quang Thanh viết về tình yêu rất dí dỏm. “Những hình ảnh, những liên tưởng khác thường nhưng dễ chấp nhận, hình tượng thơ đi nhanh vào lòng người đọc nhờ những quan sát tinh tế bằng một ngôn ngữ ví von, dân dã...” [36, 191]. Tất cả đều khuấy động con tim đầy trai trẻ, hồn nhiên, xao xuyến. Có khi, ông lại yêu mái tóc thề nghiêng nghiêng trong đêm trăng thanh gió mát, sóng biển rì rào:
Trăng chao nửa vòng sương trắng
Tóc thề một mái nghiêng nghiêng
Biển dào lên từ lồng ngực
Phía tôi? Hay từ phía em?
(Gửi người ở Xuân Song)
Tình yêu luôn làm ta bối rối, khổ sở khi mà người về nhưng lòng đã ở lại, trái tim của mình đã trao cho người khác:
Người về, lòng không về nữa
Biết từ nay lại khổ rồi
Biển đó. Và em ở đó
Lang thang làm gì? Tôi ơi!
(Gửi người ở Xuân Song)
Cảm xúc về tình yêu trong ông là nỗi buồn, cô đơn vì tình yêu đã mất. Tình yêu đến - tình yêu đi để lại cho ông sự “ngơ ngác”, buồn, lạc lõng, đơn côi:
Em chợt đến như một tia nắng ấm
Ru hồn anh bằng vô số cung đàn
Rồi em đi. Và mặt trời tắt nắng
Anh một mình ngơ ngác giữa hoàng hôn.
(Hoàng hôn cô đơn)
Cô đơn nên nhìn thấy gì cũng lẻ loi, đơn quạnh: một ngôi sao, một vầng trăng, một cánh chim...đều vật vờ, cô đơn, ngơ ngác...:
Phía biển xa một ngôi sao nhấp nhánh
Cũng đơn côi, cũng ngơ ngác kiếm tìm
Trăng chẳng mọc trong lòng người hiu quạnh
Đêm vật vờ lạc lõng một cánh chim
(Hoàng hôn cô đơn)
Tất cả đều chung một tâm trạng cô đơn lạc lõng. Phải chăng bản thân buồn nên nhìn cái gì cũng đầy tâm trạng? “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Tình yêu trong thơ ông còn là sự tiếc nuối. Sau hai mươi năm trời gặp lại, vẫn chùm hoa tím ngày ấy, nhưng nay đã “nở giữa ao người”:
Bèo dạt về đâu bèo ơi
Hai mươi năm trời bỗng gặp
Vẫn là chùm hoa tím ngát
Thiết tha nở giữa ao người
(Với một dòng sông)
Tình cảm của nhà thơ không chỉ là tình yêu đôi lứa mà còn là những giăng mắc, những duyên nợ tình người, tình đời. Như đã nói ở trước, Bùi Quang Thanh là một nhà thơ, nhà báo, nhà nhiếp ảnh, ông đi nhiều, trải nghiệm nhiều; và với tính nghệ sĩ - đa sầu đa cảm, ông thương thay cho cô gái gánh quả hồng đi bán giữa cảnh trời mưa to gió lớn:
Em với gánh hồng giữa trời mưa
Thị xã hoàng hôn gió mịt mờ
Lát nữa em về vai trĩu nặng
Gánh hồng, gánh gió, gánh cơn mưa...
(Qủa chín sai mùa)
Nhà thơ cảm thương cho cô gái hay cho người dân sau “bão táp”, “sâu già”, “nắng hè khét lửa” để được Thu vàng rộm bao gò má/ Quả tròn lúc lỉu đụng vào nhau nhưng khi đến mùa thu hoạch thì chẳng ai mua: Thương em cô gái bán hồng / Trời mưa, hàng ế, người đông hững hờ. Đó còn là một thứ gì như tiếc nuối xót xa khi có sự đối lập về quan niệm, cách nhìn trong tình yêu, trong cuộc sống: Em yêu hoa đỏ mà anh tặng em hoa tím/ Hoa tím ơi lạc bước đâu rồi/ Cái màu đỏ có làm em mỏi mắt/ Khi dòng đời bao màu tím buông trôi (Hoa tím).
Với tấm lòng nhân hậu, với “nỗi buồn trần thế”, Bùi Quang Thanh nhiều khi cảm thấy vui đó, buồn đó. Vui, buồn luôn song hành cùng nhau: Tôi nhặt niềm vui ai đó bỏ quên trên đường phố thả vào chiếc cốc cuộc đời. Niềm vui lặn xuống đáy còn nỗi buồn tràn ra ngoài miệng cốc. Niềm vui vay mượn không hề sủi bọt trong chính đời tôi. Nỗi buồn của ai cứ quấn lấy tôi như máu thịt (Song hành). Buồn - vui là sự đối lập, chênh lạc nhau như trời với đất. Khi mắt này chưa kịp cười vui thì mắt kia đã nhỏ lệ; niềm vui thì nhỏ nhoi mà nỗi buồn thì vô hạn: Niềm vui như miếng vá mới mà nỗi buồn như tấm áo cuối đời luôn Song Hành cùng tôi (Song hành)
Ở Bùi Quang Thanh, văn hóa là cội nguồn, là gốc rễ của hồn quê. Dù đi đâu, ở đâu, được cảm nhận văn hóa nước ngoài, ông vẫn luôn tự hào vì quê mình có điệu hát phường cày, phường vải. Khi đến nước bạn Lào anh em, được thưởng thức điệu Lăm vông đắm say trong lễ Hội Bun, ông chạnh lòng nghĩ về quê nhà:
Em gái quê giờ chẳng biết hát dân ca
Không phân biệt điệu phường cày, phường vải
Đêm lễ hội cũng tròn mông nhún nhảy
Nhưng toàn “rock”, “rếch”, “lam ba đa”.
(Đêm lăm vông ở Lạc Xao)
Ông cảm thấy tiếc nuối như mẹ già nuối về một thời xa xưa, khi ngày nay giới trẻ đã có sự lai căng văn hóa, tiêm nhiễm văn hóa nước ngoài không còn mặn mà với những làn điệu dân ca ngọt ngào đằm thắm nữa.
Tình yêu của ông còn là thời tuổi trẻ cùng người yêu đi chơi trong những đêm mùa xuân có mưa bay, tiết trời se lạnh. Những hạt mưa rơi trên mái tóc người yêu như những hạt ngọc lung linh huyền ảo, phủ kín tóc của người yêu:
Đêm nay mưa xuân rây hạt mịn
Muôn vàn hạt trắng dát tóc em
Anh lo em lạnh tìm khăn tím
Choàng cả muôn vàn hạt sao đêm.
(Những hạt ngọc)
Bùi Quang Thanh ví đôi mắt của người yêu là hạt ngọc: Có hai hạt gì trong đáy mắt/ Lóng lánh ngập ngừng ngước nhìn lên… Đôi khi cảm xúc đến rất nhanh, chỉ trong một giờ học môn Triết, tác giả đã phải lòng người con gái ngồi cùng, để rồi bâng khuâng xao xuyến khi cô gái không ngồi đó nữa. Lấy cảm hứng đâu để học tiếp?
Anh không lao ba trăm ngàn ki-lô-mét/ giây
Anh ngồi yên và... anh bốc cháy
Lát nữa hết giờ không em ngồi đấy
Lấy gì làm năng lượng trong anh?
(Trong giờ học triết)
Có khi ông “phải lòng” cô gái Thái dịu dàng đã “bỏ bùa” ông bằng sự thơ ngây của trẻ con, từ nụ cười, ánh mắt, từ khói hương nơi quê cô, từ các địa danh: thác Khó, thác Nhia, thác Đũa, sông Hiếu... Tác giả đưa ra lí do mình bị cô gái Thái bỏ bùa :
Cô gái Thái ơi
Em bỏ bùa tôi
Bằng ngây ngô con trẻ
Bằng nụ cười đắm say
Đôi mắt buồn dịu thế...
(Em bỏ bùa tôi)
Ông còn “sững sờ” trước một nhà sư trẻ tuổi, xinh đẹp: Mười năm lên núi tu hành/ Vẫn chưa nắn nổi một vành môi cong. Và ông biện minh cho trái tim đa cảm của mình: Cửa thiền ai cấm xinh tươi/ Thi nhân ai cấm nói lời trái tim (Gửi Hạnh Thuyền)
Ông thương xót cho số phận những người dân một đi không trở về trong cơn bão Chan chu ở Đà Nẵng vào năm 2006:
Áp tai vào cát mà nghe
Ngoài khơi ngàn dặm tiếng ghe lịm dần
Nghe trong gió cả sóng gầm
Tiếng ai như tiếng người thân thét gào...
(Tình người vợi bớt thương đau)
Không chỉ là thương xót, ông còn nhận ra ở những con người nghèo khổ này trong cơn cuồng phong đã đồng cam cộng khổ chia sẻ với nhau:
...Sống như đất, chết như bùn
Dân nghèo, những mảnh lưới cùn đắp nhau
Biển cho trước. Biển lấy sau
Tình người – vợi bớt thương đau – tình người
Chia nước mắt, sẻ nụ cười
Cưu mang nhau để tình đời thắm hơn...
(Tình người vợi bớt thương đau)
Tình yêu và những giăng mắc tình đời, tình người trong thơ Bùi Quang Thanh lúc nào cũng như thường trực. Yêu thì say đắm thiết tha, vui với niềm vui của người, buồn với nỗi buồn của những người thân yêu. Thậm chí rất nhiều người nhà thơ chỉ quen mà không thân, Bùi Quang Thanh cũng “buồn não ruột” cho họ. Một trái tim đa sầu, đa cảm nên hay “thương vay” là vậy!...
2.2. Hệ thống hình tượng trong thơ Bùi Quang Thanh
2.2.1. Tổng quan về hệ thống hình tượng trong thơ Bùi Quang Thanh
Nói đến hình tượng trong thơ là nói đến hình tượng nhằm cụ thể hóa một ý nghĩ, có khi là cảm xúc. Nói về cảnh vật nhưng ở đây mỗi nét chấm phá đều ẩn khuất cảm xúc của con người. Đây là loại hình tượng phổ biến trong thơ. Ngoài ra còn có hình tượng hóa cảm xúc, tức là nó làm cho cảm xúc trở thành cụ thể hơn, bóng bẩy hơn, dễ lắng sâu vào lòng người đọc hơn. Vì vậy, hình tượng trong thơ Bùi Quang Thanh cũng là những hình tượng ý niệm, cảm xúc và hình tượng hóa cảm xúc rất rõ ràng. Hệ thống hình tượng trong thơ ông đa dạng và phong phú.
Ám ảnh trong thơ Bùi Quang Thanh là hình tượng mẹ (sẽ nói ở mục sau), về lời ru à ơi và đặc biệt là về hương khói. Đó là ba hình tượng lặp đi lặp lại, nó in sâu trong người đọc, cảm giác lúc nào cũng hiện ra vương vất hình ảnh mẹ gầy guộc, vất vả, khổ đau, lời ru và mùi của khói hương nghi ngút.
Đọc thơ Bùi Quang Thanh, lúc nào cũng như nghe văng vẳng bên tai lời ru của mẹ, hay lời ru của những người lính may mắn được sống sót từ chiến tranh trở về và họ ru đồng đội để an ủi những linh hồn cô đơn lạnh lẽo nơi rừng sâu hoang vắng. Đọc lên ta thấy nghèn nghẹn: Đậu lên mặt mẹ ngân dài “À ơi”/ À ơi... tiếng mẹ - tiếng ve khản rồi / Nghèn nghẽn tiếng “ầu ơ...” cánh võng không bàn tay hụt hẫng. Cuối vườn thu bay từng sợi nắng, dứt gì lòng mẹ?/ Riết vào lòng bật tiếng nấc à ơi / Ngủ đi, nào ngủ, à ơi...
Bên cạnh như đang nghe thấy lời ru thì sâu đậm nhất là ta ngửi thấy mùi hương khói. Đây là hình tượng tràn ngập trong thơ Bùi Quang Thanh. Nó ám ảnh, day dứt và lay thức người đọc: Thu ơi! Khói hương thơm đến lạnh người. Ngọn khói: tóc mây – chân hương: nguồn cội. Kẽo kẹt từ vồng tre ấm bụi “tre già măng mọc” mà thương/ Mẹ chia đều mỗi đứa một cây nhang/ Trong khói hương chiều vàng gió lặng/ Khói hương hun hút đợi chờ/ Trong đoàn người dâng hương Đồng Lộc/ Khói hương như chẳng chịu buồn/ Mãnh sư thèm chi chút khói cay/ Lòng quê thoang thoảng nén hương trầm/ Khói hương có bén cõi trời/ Tóc sương hương khói giăng đầy/ Thắp nén hương trước những gì xưa cũ/ Ken đầy thêm những bát hương thương nhớ/ Nén hương mồ bạn còn chưa kịp về ...
Tất cả mọi hình tượng trong thơ Bùi Quang Thanh dĩ nhiên xoay quanh hình tượng trung tâm là cái tôi trữ tình tác giả. Hình tượng trung tâm này luôn gắn với hình tượng quê hương xứ sở qua biểu tượng núi Hồng, sông Lam...
2.2.2. Hệ thống những hình tượng chính yếu, xuyên suốt thơ Bùi Quang Thanh
2.2.2.1. Cái tôi trữ tình trong thơ Bùi Quang Thanh
Bùi Quang Thanh là một người đa sầu đa cảm. Ông vui với cái vui của người thân, bè bạn, buồn với nỗi buồn của nhân tình thế thái. Ở con người ông yêu, ghét rõ ràng. Ông yêu thương quý mến ai thì thật sâu sắc, chân thành nhưng ngược lại nếu ông ghét ai đó thì ghét cay ghét đắng như không muốn đội trời chung vậy. Con người ông đúng như câu ca dao: Yêu nhau yêu cả đường đi/ Ghét nhau ghét cả tông ti họ hàng... Cho nên chất trữ tình trong thơ ông thật đặc biệt. Hầu như bài nào cũng nổi bật cái tôi của tác giả.
Cái tôi trong Tự khúc là cái tôi buồn, tiếc nuối, đầy chiêm nghiệm:
Bên biển xanh chẳng soi nổi bóng mình
Trước gương trong không gọi về tuổi trẻ
Bạc đầu rồi vẫn còn ngơ dại thế
Cũng mình thôi mà đã chắc là mình.
Đứng bên biển xanh, ông không thể soi bóng mình, không biết mình là ai, là gì. Trước gương nhà thơ thấy tuổi già đã đến nhưng cảm thấy mình còn “ngơ dại”. Là mình ư? Đâu phải là mình. Không hẳn là mình. Đây là tâm lí thường thấy khi con người rơi vào trạng thái day dứt, tiếc nuối, buồn bã về một thời đã qua. Bùi Quang Thanh không thể quên đi một thời đầy bom rơi đạn lửa. Cũng như khi ông đi bộ đội đóng quân ở Sơn Tây trước khi vào Nam chiến đấu. Ông cùng đồng đội đã sống cùng người dân ở đây. Sau hơn hai mươi năm, khi đã Qua rồi thời thời bom lửa xa xăm Bùi Quang Thanh mới trở về thăm lại chỗ đóng quân xưa và người mẹ đã từng cưu mang ông. Nhà thơ bồi hồi, bâng khuâng khi trở lại nơi này:
Những hạt mưa của vùng Ba Vì
Có nhận ra người quen thủa trước
Mà quấn mãi vào từng nhịp bước
Trên đường về tìm mẹ đêm nay
(Một thời sao lãng quên)
Tác giả đi về trong một buổi tối với mưa trĩu hạt ở vùng Ba Vì. Trong ông lúc này chắc xúc động lắm, đến như tự hỏi những hạt mưa kia có nhận ra mình. Đó là sự ân hận khi ông đã quên đi một thời được sống trong vòng tay của các bà mẹ ở Ba Vì, Sơn Tây. Quên đi sự chăm sóc, giúp đỡ của họ, sự bao bọc che chở của người dân. Nỗi xúc động nghẹn ngào của nhà thơ khi mình với bao lo toan vất vả đời thường đã lãng quên, nhưng khi ông tìm về trong đêm tối thì thật bất ngờ:
Hai mươi năm biết mẹ có còn không
Tôi lóng ngóng sờ tay lên chốt cửa
Đêm run rẩy một ngọn đèn trước gió
Tự đáy lòng bật tiếng nấc: Mẹ ơi!
Và bất ngờ - ôi bà mẹ Sơn Tây
Bỗng gọi đúng tên tôi sau câu hỏi
Ôm chặt tôi mẹ khóc trong đêm tối
“Giờ mới về, con còn sống đó sao?”
(Một thời sao lãng quên)
Một sự xúc động tột cùng xen lẫn ân hận của nhà thơ khi người mẹ ấy vẫn ngóng chờ ông, mong tin tức của ông, gọi tên ông khi nhìn thấy sau hai mươi năm trời mới gặp. Đó còn là sự biết ơn những người dân đã bao bọc nuôi quân, động viên tin tưởng anh bộ đội cụ Hồ trước khi vào Nam chiến đấu để dân tộc được hòa bình như hôm nay.
Đèo Ngang là địa danh nổi tiếng. Đây là nơi khi xưa Bà Huyện Thanh Quan khi đi vào cố đô Huế đã dừng chân. Với tấm lòng yêu nước thương quê, bà đã làm nên bài thơ nổi tiếng. Bây giờ, Bùi Quang Thanh cũng dừng chân tại đây. Ông bao quát cảnh đèo, bỗng chạnh lòng bởi sau hàng trăm năm khi Bà Huyện tức cảnh làm thơ thì giờ đây đèo vẫn hoang sơ như vậy:
Đèo tiếp đèo cao với biển khơi
Thời gian hóa đá tưởng ngừng trôi
Ôi lời khắc khoải xưa bà Huyện
Sao chốn hoang sơ chẳng đổi dời.
(Qua đèo Ngang)
Bùi Quang Thanh là người đa cảm. Những cảnh đời khó nhọc của người dân cũng làm cho ông thương cảm. Hình ảnh cô gái bán hồng không có người mua:
Mưa đổ sập sùi trên đường nhựa
Những quán lều tranh hạ bớt rèm
Xe ca bịt bùng không mở cửa
Gánh hồng mới chín nụ cười em.
(Quả chín sai mùa)
Mưa to gió lớn, các quán sá đều đóng cửa. Xe khách chạy thẳng tới địa điểm cần đến chỉ còn lại gánh hồng mới chín và nụ cười mời chào vô vọng của “em”. Gánh hồng với những quả hồng vuông, bóng, nõn nà đầy đẹp mắt. Để được những quả hồng vuông như vậy, có không ít công sức bỏ ra để bây giờ tình cảnh thật đáng thương: Thương em cô gái bán hồng. Trời mưa, hàng ế, người đông hững hờ. Tấm lòng thương cảm ấy còn được nhà thơ gửi gắm vào những đồng đội đã hi sinh của ông. Bùi Quang Thanh vỗ về,
3 ru ngủ những linh hồn đã ngã xuống cho dân tộc, cho nhân dân được yên bình. Nhà thơ đau đớn xót xa khi đồng đội một thời chiến đấu với mình giờ nằm lại với rừng sâu:
Rừng chiều nổi gió tiễn đưa
Nén hương mồ bạn còn chưa kịp về
Bao năm đá gối đất kề
Mưa dông xối cỏ, nắng hè khét xương
Giờ ai hoang lạnh sa trường
Mà ai giã bạn trên đường tìm quê?
Rừng sâu dây níu bốn bề
Nắng như đôi mắt đỏ kè rưng rưng...
(Lời ru đồng đội)
Ai đến thăm đồng đội nơi hoang vắng, nhớ lại quá khứ gian khổ mất mát ấy mà không khỏi “rưng rưng”. Bùi Quang Thanh khóc thương cho bạn khi mình đang được sống bình yên, hạnh phúc với gia đình, người thân còn bạn đến xương cốt cũng bị rễ cây ăn, mối đốt. Đau xót vì cùng ra đi chiến đấu với nhau giờ bạn nằm nơi sa trường hoang lạnh. Bùi Quang Thanh đau xót, thành kính ru đồng đội để linh hồn các liệt sĩ được an ủi phần nào. Từ tình cảm thương yêu đồng đội, thương những khốn khó của người dân quê hương, ông đã tự vấn mình và nhận ra mình “nợ” rất nhiều thứ. Cảm thấy mình thật nhỏ nhoi, hờ hững: Tôi là tôi thôi: lu mờ, hờ hững, nhỏ nhoi, nếu sôi động chút nào – có chăng – cũng vì miếng ăn tấm mặc, cũng vì gió lay mưa thức trong xôn xao chợ búa kiếp người. Tôi là tôi thôi: kẻ mắc nợ trần gian như chúa Chổm – nọ bầu trời một cụm ô xi, nợ cánh đồng một bông lúa chín, nợ mẹ đôi bầu sữa lép với câu đò đưa bên cánh võng ngọt ngào. Tôi nợ giọt mồ hôi trượt qua nếp hằn trên trán bố, nợ cây đa đầu làng chìa râu cho tôi ru võng tuổi thơ (Lay thức). Bùi Quang Thanh cảm thấy mình nợ tất cả: bầu trời, cánh đồng lúa chín đưa đến cho ông những hạt gạo trắng trong, sự chăm sóc nuôi nấng của mẹ, sự nhọc nhằn vất vả của bố và cả cây đa đầu làng đã cho ông tuổi thơ êm đềm tươi mát...
Bùi Quang Thanh đôi khi bất lực với chính mình, bất lực vì mình không thể che chở, bảo vệ cho người con gái mình yêu, đành phải thả cô ấy về với trùng khơi biển thẳm cuộc đời:
Anh đành thả em về với biển thẳm trùng khơi
Nơi hằng đêm, hằng đêm, có trăm mấu vòi bạch tuộc
Anh như con sóng gầm gào tung bờm trên mặt nước
Không che chắn nổi bốn bề con cá nhỏ nhoi ơi!
(Thả em về với biển thẳm trùng khơi)
Cuộc sống vốn muôn hình vạn trạng. Những số phận nhỏ nhoi, chìm nổi, nhà thơ muốn được gửi chút bình yên cho họ. Nhưng tất cả là không thể. Người con gái mang tên loài chim én biển. Nếu biết được con gái yêu quý của mình long đong lận đận như vậy thì ngày xưa mẹ có đặt tên như vậy không? Để rồi, theo nhà thơ, Đừng bắt em làm con cá, con chim/ Chút bình yên cũng vật vã kiếm tìm. (Thả em về với biển thẳm trùng khơi). Mọi người thường nói, thi nhân thường đa tình. Đa tình – hiểu theo nghĩa nào cũng đúng với nhà thơ Bùi Quang Thanh. Một trái tim đa cảm, dễ xúc động trước một vẻ đẹp một cánh hoa, bãi cỏ non, một dòng sông trong vắt, những ánh mắt làn môi... Trong một đêm thơ mộng, nhà thơ bắt gặp hoa quỳnh nở và tâm hồn ông xao xuyến khi cảm nhận loài hoa nở trong đêm này:
Thoảng vào trong vườn đêm
Mùi hương lan nhè nhẹ
Có tiếng ai reo khẽ
Hoa quỳnh! Ôi hoa quỳnh!
(Hoa quỳnh)
Mùi hương thơm của hoa quỳnh thoảng vào trong gió, đưa lại cảm giác lâng lâng khó tả. Vì đa tình, Bùi Quang Thanh luôn bị tình yêu sét đánh “hành hạ”. Chỉ trong một giờ học triết mà nhà thơ đã mê ngay cô bạn ngồi cùng:
Vật chất gần anh một khuỷu tay
Ý thức xa anh một ngàn cây
Em ngồi gần mà em xa quá
Em là quả thị?
Em là gió mây?
(Trong giờ học triết)
Cái tôi trong tác giả còn là sự quan tâm, lo lắng cho trái trái đất, cho tương lai của nhân loại khi mà môi trường sinh thái ngày càng bị tàn phá, những con chim ngày càng bị bắn nhiều, rừng non ngày càng bị cháy, biển với tiếng mìn đánh cá dội át tiếng sóng lao xao. Ngay sau đó, chúng ta đã bị trả giá với hàng chục cơn lũ, sóng thần ngày càng dữ dằn hơn trước. Bùi Quang Thanh thật buồn khi:Màu cây xanh lùi về phía cỏ non
Màu đỏ đất loang dần ra biển biếc
Phố chật, người đông, khói xăng, khói thuốc
Nụ hôn mềm cũng đắng khét hơi men.
(Trái đất này đâu chỉ của hôm nay)
Buồn khi môi trường ngày càng ô nhiễm, sinh thái ngày càng bị đe dọa, ông muốn gửi gắm đến mọi người hãy bảo vệ giữ gìn những gì mình có để cho trái đất không chỉ hôm nay mà còn của ngày mai:
Ai tìm chi nơi sao Hỏa, sao Kim
Ai hoài cổ thương khủng long, ma mút
Hãy giữ lấy những gì ta có được
Trái đất này đâu chỉ của hôm nay!
(Trái đất này đâu chỉ của hôm nay)
Cái tôi trữ tình trong thơ Bùi Quang Thanh “đa tình, đa sầu, đa cảm” lắm. Đến như thấy em bé gái nhỏ nhoi phải bỏ học giữa chừng để lao động kiếm sống, ông vô cùng thương cảm:
Ngón tay thon hình quản bút
Đá núi giòn sắc dao cau
Trang sách học trò vừa khép
Đã phau bụi đá trắng đầu.
(Với bé gái nhặt đá ở núi Hồng)
Nhìn thấy, nghe thấy, Bùi Quang Thanh cảm thấy buồn cho cuộc sống của nhiều em, nhiều số phận nhỏ bé vất vả. Cuộc sống đời thường đầy lo toan vất vả của một người chồng, người cha và trên hết là của một nhà thơ, nhà báo hết lòng vì công việc, khiến ông đôi khi nhận ra thời gian trôi nhanh quá:
Đón mùa xuân vào ngõ trước
Tuổi xuân đã luồn cửa sau
Nghe trong mầm non vừa nhú
Tóc xanh mấy sợi chuyển màu.
(Thời gian)
Mùa xuân vừa đến thì tuổi xuân đã đi. Con mới là măng là sữa của mẹ giờ tóc đã chuyển màu rồi. Cả bài thơ ngắn gọn, không có từ nào buồn nhưng ta thấy trong đó là sự tiếc nuối, xót xa của tác giả.
Bùi Quang Thanh là thế. Ông làm thơ ở bất cứ đâu, bất cứ thời gian nào mà cảm xúc trong ông thăng hoa. Đi trên máy bay, tác giả nhìn xuống và thấy mọi vật hiện ra với lũng núi, lưng đèo... Ông nhớ về thủa xa xăm:
Tôi bay giữa lưng chừng trời
Trong mây thấp thoáng bóng người ngày xưa
Ông tôi cày, bố tôi bừa
Bà tôi ngồi tựa gốc dừa (cũng mây)
Tóc sương – hương khói giăng đầy
Bà nhìn tôi hỏi: “Chú mày về chưa?”
“Bà ơi rừng rậm, đồi thưa...”
Giật mình. Bà với gốc dừa đã tan
Trong vời trắng lóa nghĩa trang
Bao nhiêu đông đội xếp hang vô danh.
(Viết giữa lưng chừng)
Nhìn thấy mây, liên tưởng đến ông bà, cha mẹ và nghĩ đến câu hỏi của bà, bao nỗi niềm luôn day dứt trong ông… Người chú ruột đã hi sinh nhưng không biết hi sinh nơi nào. Chú và bao nhiêu đồng đội khác vẫn “xếp hàng vô danh”. Chiến tranh đi qua lâu rồi, vết sẹo trong lòng tưởng đã khô và không còn đau nữa nhưng khi nhớ về người thân, về chú, về các liệt sĩ vô danh Bùi Quang Thanh cảm nhận sự buốt nhói trong lòng.
Bùi Quang Thanh là người sống có tình có nghĩa. Ông cô đơn khi nhớ về người bạn đã khuất. Ngày trước, năm người - năm tâm hồn hòa nhịp. Giờ đây, chỉ còn bốn anh em uống rượu. Rượu dù ngon, dù mạnh vẫn không xua đi nỗi lạnh lẽo trong lòng:Ngồi ngắm một mình. Đêm cô độc
Năm ly. Không xua nổi bốn người
Rượu nếp ngoài này cao độ thế
Mà nào cháy được lạnh lùng ơi!
(Nhớ bạn)
Nhà thơ sống chung thủy sắt son với bạn bè, đồng đội, anh em. Ta bắt gặp một Bùi Quang Thanh luôn tươi cười khi gặp ai đó. Dù thân hay sơ, dù chưa một lần gặp mặt, ông cũng nở nụ cười thân thiện với cái bắt tay nắm chặt luôn ấm lòng người. Sống chân thành, sống hết mình nên trong cuộc sống hàng ngày nhà thơ là người có nhiều bạn. Phong cách giản dị là hình ảnh mọi người thường thấy ở Bùi Quang Thanh. Cho nên, khi được dự bữa cơm chay ở chùa, ông cho rằng “phật A – Di cũng thèm”:
Bạn mời dự bữa cơm chay
Lạc rang muối mặn cà đầy dầm tương
Bàn tròn quây một góc sương
Ríu ran đủ khách thập phương tìm về...
(Cơm chay ở chùa Hương)
Cũng vì luôn sống hết mình, sống như tưởng “không còn ngày mai” nên nhà thơ đã “lên án” những người luôn sống vì mình và sống một cuộc đời vô vị, nhạt nhẽo:
Có kẻ thọ trăm năm chưa sống nổi một ngày
Những người chết già không thấy ai đầu thai trở lại
(Họ nhàm chán cuộc đời hay phạm nhiều lầm lỗi?)
Chỉ có hồn trẻ sơ sinh mới lưu luyến cõi đời.
(Không đề)
Vì yêu cuộc sống, yêu con người, yêu tất cả vạn vật trên thế gian nên khi nghĩ đến lúc phải “về với đất” Bùi Quang Thanh không khỏi buồn:Cha – mẹ: Cau trầu. Thời gian là vôi
Ta có một thời xanh tươi sự sống
Máu ta đỏ và tình yêu thấm đẫm
Sẽ lần hồi trả về đất? Buồn ơi.
(Không đề)
Cha mẹ cho ta hình hài. Cuộc đời cho ta sự sống. Đó là một niềm hạnh phúc. Nhưng khi nghĩ đến tất cả máu, tình yêu,.. trả về đất, không ai không khỏi chạnh lòng. Bùi Quang Thanh đã nói hộ chúng ta về cách hưởng thụ cuộc sống, điều chỉnh cuộc sống của mình. Từ đó mà biết vươn lên sống để trở thành người có ích cho bản thân, gia đình và xã hội.
Như ta đã thấy, vì sống hết mình, yêu hết mình nên khi tình yêu không còn, để lại trong ông cảm giác buồn tênh, lạnh giá, cô đơn:
Chợt nhận ra
Thành phố không phải của mình
Không ai là của mình
Một mình mình trơ trọi
Nước chảy ngàn năm
Chỉ gạn được những điều giả dối
Sao không dâng sóng lên quét sạch hỡi sông Hàn?
(Gửi ngày xưa)
Đôi khi, nhà thơ nhận ra sự nhiệt huyết, sự mãnh liệt của mình đặt không đúng chỗ hay đó là tình yêu sâu đậm khó vứt bỏ trong ông? Có thể lắm. Bùi Quang Thanh yêu nhiều nên có lẽ cũng thất tình nhiều chăng?
Xưa không em ta có cả thế gian
Yêu hết thảy và của ta hết thảy
Em là chi mà đốt ta đến cháy
Hóa tro rồi vẫn chưa dứt tình đau?
Hóa ra trái tim chẳng như anh tưởng
Trái tim cũng đập giả vờ
Phía ngoài nóng mà bên trong lạnh giá
Chỉ thương mình nhiệt huyết đến ngu ngơ.
(Gửi ngày xưa)
Tấm lòng chân thành ấy hiện rõ khi bạn thơ, bạn báo của ông lần lượt trở về với đất. Bùi Quang Thanh xót xa thương mến khi nghĩ đến những kỉ niệm thủa bạn còn sống:
Nhưng hắn sẽ không ngồi, không nâng chạm
Nếu trưa nay bọn trẻ vắng mẹ Thường
Chưa ai đón, chưa ai lo cơm nước
Linh chào rồi dũng cảm... dông luôn
(Uống rượu với Bá Linh)
Nhận tin bạn mất, nhà thơ như dao cắt cõi lòng:
Trời Huế mưa. Bỗng nhận tin bạn mất
Đêm đèn hoa mà lạnh ngắt cõi lòng
Ai ngoài đó thêm dùm tôi chén rượu
Dẫu biết rằng rót vào cõi hư không.
(Uống rượu với Bá Linh)
Nhiều khi, Bùi Quang Thanh buồn lòng thay cho xã hội chúng ta bây giờ. Một xã hội nhố nhăng ăn chơi xa xỉ và làm những điều hiếm thấy trước đây. Những kẻ lắm tiền nhiều của ngâm rượu Đười Ươi để uống. Nhà thơ ngậm ngùi:
Chẳng có bán – bán ai mua?
Ngang trời dọc đất vẫn chưa người dùng....
Bây giờ nhậu nhẹt tùm lum
Nõn hươu, mật gấu, xương hùm... thiếu chi
Nhẹ dăm chén, nặng mươi ly
Tỉnh cùng thế sự, say khi cơ cầu
Bây giờ họ uống với nhau
Người gầy ham béo, kẻ giàu ham chơi
Trẻ mong một xị tới trời
Già mong bán héo mua tươi tháng ngày.
(Rượu Đười Ươi)
Xã hội ngày càng phát triển. Bao nhiêu người giàu có và chức cao quyền trọng đều muốn chơi trò “độc”, ăn món “độc”, của lạ, của hiếm họ mới “đã”. Đến mức ngâm con Đười ươi với rượu để uống. Để rồi dần dần môi trường sinh thái với những con vật đáng thương như hươu, gấu, hùm... có nguy cơ đi vào danh sách đỏ. Bùi Quang Thanh đau lòng trước cảnh ấy. Đáng ra những con vật ấy phải được chạy nhảy vô tư giữa rừng xanh đại ngàn. Đằng này, con người ham của lạ, của độc kia không kể gì đến môi trường, động vật, không kể gì đến tương lai..., để cho hôm nay:
Đại ngàn đã bớt mênh mông
Hổ voi cũng hết chạy rông nữa rồi.
(Rượu Đười Ươi)
Có thể nói, cái tôi trữ tình trong thơ Bùi Quang Thanh là một cái tôi buồn vui với chính mình; cái tôi buồn vui với những con người trong nhân thế. Cái tôi đa sầu đa cảm với những mảnh đời bất hạnh, vất vả, khó khăn. Thương yêu, đau xót, tự hào hay lên án... tất cả đều nói lên một Bùi Quang Thanh có tâm hồn nhân hậu, vị tha.
2.2.2.2. Người mẹ trong thơ Bùi Quang Thanh
Hình tượng người mẹ là đề tài không bao giờ xưa cũ, nhàm chán của nghệ thuật thi ca, điện ảnh, văn học, hội họa, âm nhạc... Hình ảnh người mẹ gắn bó thân thuộc với cuộc đời mỗi con người, với văn học nói chung, thi ca nói riêng.... Hình tượng người mẹ là một trong những hình tượng nghệ thuật tiêu biểu của thơ ca Việt Nam. Hình tượng ấy vừa phản ánh khí thế hào hùng, vừa biểu trưng cho văn hóa truyền thống và hiện đại của dân tộc, thầm lặng mà mãnh liệt, dịu dàng, thủy chung mà anh dũng, kiên trung, giản dị, đau thương, vất vả mà đôn hậu, hào hùng và tươi thắm vô ngần.
Ở thơ Bùi Quang Thanh, tập thơ nào cũng tràn ngập hình ảnh về mẹ. Có khi đó là sự hối hận vì làm mẹ buồn, chưa ngoan với mẹ, làm điều không phải với mẹ mình, có khi là nỗi nhớ khôn nguôi đối với mẹ già đang “già cỗi, lay lắt” với thời gian. Dáng mẹ gắn chặt đời mình với ngọn lúa, củ khoai, đất cát, chắt chiu nuôi con nên người. Đó còn là sự chở che, lặng thầm, nhẫn nại... Hình ảnh mẹ trong thơ ông là chính là người mẹ Việt Nam ngàn đời trong cổ tích, trong ca dao. Hình ảnh mẹ là nỗi buồn không nguôi, sự ân hận khôn cùng của người con có lỗi với mẹ. Cả đời người mẹ ấy đã làm ăn chính đáng nhưng lại mang lỗi với cả làng. Bà mang nặng sự dày vò của người làm ăn không lương thiện. Còn các con của mình cũng ân hận khôn nguôi về hành động khờ dại của mình. Đây là sự ân hận muộn màng:
Rồi mẹ chẳng bao giờ buôn lạc nữa
Hai mươi năm...mẹ ngờ cả chính mình
Mẹ ngờ cả người thân thiết nhất
Côi cút thân già phải giã nghiệp mưu sinh
(Hạt đắng)
Sự lầm lỗi đó cứ âm ỉ trên suốt bước đường hành quân. Bùi Quang Thanh đau khổ để cuối cùng khi trở về mẹ chỉ còn nấm mộ. Trong “vành tang” ấy, Bùi Quang Thanh ân hận, day dứt về lầm lỗi của mình vô cùng:
Chết trong mẹ niềm tin gieo hạt đắng
Sống trong con hạt đắng chẳng nguôi tàn
Bao mùa lạc đời vẫn dâng sức sống
Con cúi đầu, hồn trắng một vành tang.
(Hạt đắng)
Người mẹ nào có con đi kháng chiến mà không mong ngóng nhớ thương? Không buồn, lẻ loi, đơn chiếc? Bùi Quang Thanh hiểu rất rõ nỗi niềm ấy của mẹ sau thời chiến:Nỗi buồn qua cánh võng gai
Đậu lên mặt mẹ, ngân dài “À ơi”
Dẫu cho đi hết cuộc đời
Mẹ ơi ánh mắt chẳng vơi nỗi buồn
Có ai níu được hoàng hôn
Có ai sẻ bớt cô đơn cùng Người?
(Nỗi đau lòng mẹ)
Câu hỏi mà không có lời đáp. Làm sao trả lời được khi nỗi đau quá lớn như thế, cũng giống như ai mà níu được hoàng hôn ở lại? Người mẹ ấy dù có đi hết cuối con đường vẫn không sao quên được núm ruột của mình đã nằm lại nơi rừng sâu nước đọng. Con không trở về để lại trong lòng mẹ bơ vơ lạc lõng “tay già run rẩy” mò mẫm cái nôi mà con nằm từ nhỏ.
Chiến tranh đi qua đã lâu nhưng những người mẹ có con là liệt sĩ vẫn có nỗi đau nhức nhối. Nỗi đau ấy như vết sẹo đã khô nhưng như “muối xát lòng”. Đau khổ là vậy, nhưng người mẹ ở Vĩnh Linh không chịu khuất phục khi quân thù còn đó. Mẹ vẫn nén đau thương, nuốt nước mắt vào trong để chiến đấu kẻ xâm lược:
Chẳng nỡ bới tìm trong thời gian vụn vỡ
Vết sẹo đã khô sao vẫn muối xát lòng
Mẹ gói đau thương đặt vào núm rốn
Đôi mắt mờ lệ đỏ chảy vào trong...
(Tản mạn Vĩnh Linh)
Với suy nghĩ, cách nhìn và sự nhớ nhung của người liệt sĩ thì mẹ trong Lời hương khói cũng là người mẹ tiêu biểu cho sự hi sinh của phụ nữ Việt Nam: Đôi vai gầy gánh trăm mùa lúa, xuyên vạn ngàn sương, gánh cả thời con gái qua sông. Cha vào Vệ quốc quân. Mẹ chẳng để nhớ thương biến thành Tô Thị. Mẹ dạy: Chim có tổ, cáo có rừng. Mẹ đếm từng ngày kị ông, giỗ cố. Mẹ mòn lưỡi lừa cá xương bù giọt sữa kiệt khô trong bầu vú xanh gầy. Mẹ ngắm con tằm khôn lớn trên tay mà không dám chờ ngày tằm nhả tơ thành lụa. Hình tượng những người mẹ, người chị hiện ra trong các tác phẩm đậm tính nhân văn vẫn khơi lên ở người đọc những buốt nhói khôn nguôi: Khi nhịp cầu nối lại, gương mặt người sẽ rực rỡ nhường bao. Đừng dồn hết hào quang vào mắt mẹ, sau rạng ngời là diệu vợi niềm đau. Nơi mẹ tiễn con đi - nơi mẹ ngóng con về - nơi đồng vọng . Sừng sững tượng đài chiến thắng. Đìu hiu dáng mẹ lưng còng (Lời hương khói).
Cả cuộc đời mẹ sống vì chồng con, lo toan mọi việc. Đó còn là người mẹ cả đời một nắng hai sương bán mặt cho đất, bán lưng cho trời và nhanh chóng bị thổi bay một thì con gái :
Lúa đỏ đuôi rồi mẹ ơi
Phất phơ đôi bờ ngực lép
Rám nắng lặn vào da mặt
Tay gầy vin mãi buồng cong.
(Tiếng đồng)
Hình ảnh mẹ ở những nơi đất cằn đá sỏi, những công trình dở dang, những dự án đang đi vào quên lãng. Mẹ và người dân không việc làm, không có ruộng, cuộc sống đói nghèo luôn đeo bám để mẹ vẫn ngày ngày đi chân đất gánh khoai đi chợ tỉnh bán:
Mẹ vẫn mang tơi, chân trần lên chợ tỉnh
Cát tháng tư cháy đen màu thính
Rổ khoai lang nắng xém hai đầu
Lũ dạt không tìm nổi dấu chân trâu
Hun hút bàn chân bốc khói.
(Trưa hè ở “bể ngang”)
Người mẹ ở đâu và thời nào cũng vậy, luôn hi sinh cho chồng cho con: Mẹ tôi bán mặt cho đồng. Còng lưng đổi chút son hồng môi em (Ngày nay).
Đó còn là người mẹ âm thầm chăm sóc, hương khói cho các anh hùng liệt sĩ. Trên đất nước ta, một đất nước bom rơi đạn nổ thì biết bao người mẹ như thế này: Mẹ đã già, tóc bạc nhưng trong đêm tối, mẹ vẫn thắp nhang. Mẹ vẫn chia nhang đều cho hàng nghìn ngôi mộ có tên và không tên:
Trăng rắc sữa qua khói hương mờ ảo
Nghĩa trang đêm quạnh quẽ lối hàng
Nghìn đứa con không tên không địa chỉ
Mẹ chia đều mỗi đứa một cây nhang.
(Đêm A Lưới)
Người mẹ của Bùi Quang Thanh cũng có chồng ra trận trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Người mẹ ấy khi chồng ra trận không cõng con lên đá núi đợi chờ như nàng Tô Thị xưa mà bà ra sức làm việc vì gia đình, vì Tổ quốc. Bà có rất nhiều việc cần làm:
Cha cùng Đại đoàn hành quân lên ải Bắc
Mẹ chẳng địu tôi lên vọng đá đợi chờ
Vạt lúa lẩy đồng, vồng khoai chưa tủ
Dưới Thiên Cầm tàu chiến giặc mò vô...
(Mẹ chọn năm sinh tôi)
Bùi Quang Thanh khi viết về mẹ, cảm xúc trong ông không chỉ là người mẹ cụ thể. Ông viết về Mẹ chung của chúng ta: mẹ Âu Cơ: Con chẳng hình dung ra Mẹ khi dẫn đàn con đạp núi xuống đồng bằng. Con chẳng hình dung những ngón chân trần lần đầu tiên víu lên mép biển. Mái nhà đông Trường Sơn thì dốc thế kia, lổn nhổn đá tai mèo trắng lòa mặt sóng...(Dáng mẹ). Mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trứng trăm con. Năm mươi theo cha lên núi. Năm mươi theo mẹ xuống biển. Những chàng trai theo mẹ đã làm nên sự sống: Bàn tay không của người mẹ trẻ, những bàn tay không của đám trai đang khao khát trưởng thành, từ cheo leo làng bản xuống chài lưới định canh, con ốc con cua bữa đầu thay tôm cá (Dáng mẹ). Và Mẹ Âu Cơ đã đi vào lịch sử khi Người đàn bà đầu tiên trong cổ tích dựng nước non bằng một bọc trứng Rồng. Đất nước đã trải qua hơn bốn nghìn năm nhưng chưa ai tạc nổi dáng hình của Mẹ. Chưa ai hình dung ra hay mẹ Âu Cơ chính là tất cả các bà mẹ trên khắp đất nước Việt Nam chúng ta? Hình ảnh người mẹ tảo tần, chịu thương chịu khó, quanh năm vất vả mưu sinh vì chồng, vì con? Mẹ trong thơ Bùi Quang Thanh còn là niềm tự hào về núi Hồng sông Lam khi có những con chim Phượng Hoàng bay về đậu trên chín mươi chín đỉnh non Hồng:
Mẹ bảo: chưa có bao giờ
Đàn phượng hoàng oai đến thế
Dang cánh tung vờn sóng bể
Đuôi dài tha thiết mây mưa
(Huyền thoại núi Hồng)
Câu chuyện người mẹ kể về đàn chim đậu trên núi Hồng cho con nghe thôi thúc và bồi đắp tình yêu quê hương, nơi chôn rau cắt rốn của mình.
Trong tâm hồn Bùi Quang Thanh người mẹ cụ thể của ông là một người phụ nữ suốt đời tần tảo ngoài đồng ruộng. Không những thế, mẹ còn nuôi đàn con khôn lớn và cùng bà con đuổi giặc ngoại xâm. Người mẹ ấy kể cho nhà thơ nghe biết bao câu chuyện về lịch sử quê nhà: Mẹ tôi bảo: Cá gáy vượt Vũ Môn để hóa ra Rồng. Tôi đến Vũ Môn, nơi giao thoa giữa trời với đất, thấy ngọn thác từ chín tầng trời rơi vào trang cổ tích, thấy chín tầng mây chất chồng lẫn vạt ngô non (Nơi ấp trứng). Bùi Quang Thanh xem dải đất miền Trung là nơi ấp trứng và luôn cảm ơn mẹ Âu Cơ sinh ra và cho chúng ta biết ơn những anh hùng hào kiệt, những người con mở nước và giữ nước: Cám ơn mẹ Âu Cơ khéo khâu chiếc tổ Rồng cheo leo trên bán đảo để khúc ruột miền trung thành nơi ấp trứng sinh nở anh hào. Những đứa con của Long Quân vươn vai đi mở nước, không vươn miện trên đầu mà rực rỡ cờ sao (Nơi ấp trứng). Hình ảnh mẹ là hình ảnh quê hương nghèo lam lũ. Đọc thơ ông, ta bắt gặp mẹ với áo tơi nón lá. Mẹ là cánh vạc mom sông tảo tần:“Yêu quê yêu nhất cánh đồng”
Đồng chua sông mặn cò không lối về
Nghìn năm vẫn mái tranh quê
Mẹ tôi tơi lá nón mê chống trời
“Tháng ba trong nước em ơi”
Củ khoai tím cả vỏ ngoài ruột trong
Mẹ làm cánh vạc mom sông
Cha buồn như lão Thần Nông mất mùa
Đói lòng nên mỗi câu ca
Cũng thơm “rau muống với cà dầm tương”.
(Viết từ những câu ca)
Hiếm có đất nước nào chịu đau khổ nhiều vì chiến tranh như Việt Nam chúng ta. Đó là một quá khứ huy hoàng, oanh liệt nhưng cũng đầy mất mát hi sinh, đau đớn. Trong đó, dải đất miền Trung khắc nghiệt về khí hậu, nghiệt ngã trong chiến tranh. Chịu đau khổ nhất vẫn là bà, là mẹ, là vợ. Họ là những con người vai gầy oằn nặng khổ đau khi chồng con không trở về. Cuộc đời mẹ là bảy nổi ba chìm. Viết về Mai Hắc Đế, Bùi Quang Thanh thể hiện sức mạnh của người mẹ và niềm tin vào ngày mai tươi sáng:
Cha con phận mỏng không về
Đã đành chưa trọn lời thề nước non
Nhưng mà còn mẹ? Còn con
Tổ tiên ta đó và còn ngày mai...
Đường duyên ngắn, quãng nợ dài
Mẹ ơi! Hạt muối làng Mai xát lòng
Từ thời xa xưa, khi mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, trở thành tổ tiên con Lạc cháu Hồng chúng ta đến chiến tranh bảo vệ nền độc lập chủ quyền hay là thời bình ngày nay thì hình ảnh mẹ vẫn không có gì thay đổi. Tất cả các bà mẹ (nhất là các bà mẹ ở vùng lam lũ) vẫn vất vả, tần tảo, hi sinh: Mẹ tôi bán mặt cho đồng. Còng lưng đổi chút son hồng môi em (Ngày nay).
Có thể nói, hình ảnh mẹ trong thơ Bùi Quang Thanh làm nhức nhối bạn đọc với đôi bờ ngực lép, bầu vú khô gầy, đảm đang, chịu thương chịu khó trở đi trở lại ám ảnh tất cả chúng ta: Phất phơ đôi bờ ngực lép/ Mẹ đếm từng ngày kị ông giỗ cố. mẹ mòn lưỡi lừa cá xương bù giọt sữa kiệt khô trong bầu vú xanh gầy/ Nợ bầu trời một ngụm ô xi, nợ cánh đồng một bông lúa chín, nợ mẹ đôi bầu sữa lép với câu đò đưa bên cánh võng ngọt ngào/ Vai gầy oằn nặng khổ đau/ Mẹ đang kì son trẻ. Yếm trắng che khoảng áo ngực để hờ. Khoảng áo ngực dành cho tôi bú. Những bữa chiều vơi bát nheo, khô... Đó còn là các bà mẹ gặp nhiều đau thương mất mát, nước mắt khóc con, khóc chồng lúc tiễn đưa và không trở về. Các mẹ, các chị không gục ngã mà nén đau thương hiên ngang đứng dậy. Bên trong của những vẻ ngoài ấy là tấm lòng bao dung độ lượng, nhân hậu, vất vả, hi sinh... Hình tượng mẹ trong thơ Bùi Quang Thanh lấp lánh nhiều vẻ đẹp. Viết về mẹ, ông không tô vẽ mẹ cho đẹp đẽ, kì vĩ lớn lao nhưng qua đó ta thấy người mẹ thật thân quen, gần gũi với mỗi người.
2.2.2.3. Quê hương với biểu tượng núi Hồng trong thơ Bùi Quang Thanh
Quê hương xứ sở là nơi chôn rau cắt rốn. Ai cũng yêu quê hương của mình. Người ở nhà yêu cách của người ở nhà. Kẻ đi xa yêu theo cách của kẻ ở xa. Các nhà văn, nhà thơ nói chung và Bùi Quang Thanh nói riêng thì yêu quê, nhớ quê, họ đã bộc lộ tình cảm của mình vào trong tác phẩm. Có những tác phẩm từ xúc cảm này mà sống mãi với thời gian. Ở Trung Quốc, đời Đường, Lí Bạch đi xa đêm nhìn trăng nhớ quê. Trương Kế đêm nằm đợi thuyền nhớ quê thao thức không ngủ được. Ở nước ta, có nhiều tác giả có nhiều bài thơ hay về quê hương đất nước. Trong số đó có Bùi Quang Thanh.
Bùi Quang Thanh yêu quê hương theo cách các nhà thơ đã yêu. Quê hương của ông là nơi “đất cằn sỏi đá”. Con người nơi đây chịu thương chịu khó. Họ vượt qua khó khăn khắc nghiệt của thời tiết, thiên tai... Viết về quê hương, Bùi Quang Thanh lấy núi Hồng làm biểu tượng. Bởi thế, đẫu bay tới trăm miền, Bùi Quang Thanh vẫn trở về với cội nguồn quê hương, xứ sở, với Mẹ yêu thương (nghĩa đen cũng như nghĩa bóng). Có một miền văn hóa Nghệ Tĩnh trong thơ Bùi Quang Thanh! Điều ấy không chỉ hiện diện ở những thi liệu như núi Hồng, Ngàn Hống, La Giang, sông Cụt, rú Cùm, áo tơi, nón lá... mà cả phương ngữ Nghệ Tĩnh [41, 2]. Trong trường ca Huyền thoại núi Hồng nhà thơ kể về quê của mình từ thời xa xưa, khi đàn chim về đậu trên các đỉnh núi qua lời kể của mẹ, của bà:
Mẹ bảo: xưa chim về đây
Đậu kín non Hồng trăm nhỏn
Đàn chim lông hồng, đốm trắng
Mắt biếc sao trời, kiêu sa.
Người xưa nói: đất lành chim đậu. Núi Hồng tự ngày xưa chim đã về hội tụ đậu trên các nhỏn núi. Những con chim với màu sắc đẹp đẽ: lông hồng, đốm trắng, mắt biếc, kiêu sa. Qua lời mẹ kể, như hiện lên trước mắt nhà thơ sự oai phong của đàn chim phượng hoàng:
Mẹ bảo: chưa có bao giờ
Đàn phượng hoàng oai đến thế
Dang cánh tung vờn sóng bể
Đuôi dài tha thướt mây mưa.
Dãy núi Hồng Lam với nước biếc, sóng lượn uốn quanh làm cho đàn phượng hoàng tha hồ tung cánh, mặc sức thả mình bay giữa mây trời rộng lớn. Đàn chim phượng đẹp đẽ đã nhận ra một dải với: Hoành Sơn, Hồng Lĩnh, Trường Sơn, biển Đông, rừng, cánh đồng bao la và mặt hồ gợn sóng:
Hoành Sơn chắn mặt Nam
Hồng Lĩnh vờn phía Bắc
Dãy Trường Sơn chạy dọc
Sóng biển Đông giăng ngang
Ba phía ngút rừng xanh
Một bên trùng bể biếc
Gió đồng ngân khúc nhạc
Hồ trong gợn sóng lòng.
Mảnh đất với bốn bề sông núi, phía Nam có dãy núi Hoành Sơn, phía Bắc là Hồng Lĩnh với đất và người hòa hợp. Dãy núi Trường Sơn chạy dọc, một biển Đông nằm ngang. Cùng với đó là xanh ngút rừng cây, là cánh đồng bát ngát, là ao hồ lăn tăn mặt sóng. Đó là nơi thích hợp cho chim phượng bay về làm tổ với lòng mãn nguyện. Cùng địa linh với thế “hổ chầu long cuộn” như vậy nên chim phượng đầu đàn kêu lên:
Dải đất này đẹp qúa!
Qua bao vùng quen lạ
Chưa nơi đâu sánh bằng.
Cả bầy chim đông thanh:
“Dừng đây thôi. Tuyệt! Tuyệt!”
Từ khi đàn chim đậu, tất cả như bừng sáng. Muôn vật reo ca chào đón: cây bỗng xanh hơn, đông nở hoa rực rỡ chào đón, hai dòng sông La và sông Lam cùng ào dậy sóng và tất cả muôn thú hát ca vang dậy núi rừng để chào đón đàn chim hồng, chim phượng:
Cây bỗng xanh da diết
Đồng rực rỡ muôn hoa
Sông Lam cùng sông La
Lại ồn ào dậy sóng
Cả một vùng Ngàn Hống
Chim thú hát ca vang.
Đây là những vần thơ đầy tự hào về quê hương của Bùi Quang Thanh. Văn Giá nhận xét: “Bùi Quang Thanh chẳng phải đi đâu hết, anh cứ dầm đời mình giữa đồng đất quê hương mà sống, chí tình chí nghĩa. Ai có thể bảo thơ Bùi Quang Thanh hay dở thế nào thì chưa biết, chứ không ai có thể nghi ngờ tấm lòng hiếu thảo của thơ anh đối với người, với đất quê anh. Một hồn thơ như thế hẳn phải được đáp đền. Bao nhiêu dưỡng chất quê hương đã bồi thấm vào thơ anh, nồng hậu mà kiêu hãnh” [12, 1]. Đúng thế! Bùi Quang Thanh đã cất lên nỗi lòng yêu quê da diết trong nỗi nhớ của người con xa quê. Nhưng đôi khi, nghĩ về quê, nhớ quê ông vẫn có một nỗi buồn chơi vơi khi đàn chim trăm con về đậu núi Hồng mà chỉ có chín mươi chín đỉnh núi:
Chín chín đỉnh non Hồng
Thiếu một nơi chim đậu
Phượng hoàng bay về đâu
Giữa mây trời xa rộng.
(Chơi vơi)
Bùi Quang Thanh buồn chơi vơi vì đỉnh núi Hồng không đủ cho trăm con đậu. Mặc dù đất lành, có thế hổ chầu long cuộn nhưng một con không có chỗ đậu cả đàn đã bay đi. Đó là nỗi lòng không riêng gì của Bùi Quang Thanh mà chính là nỗi lòng của tất cả ngững người con sinh ra trên mảnh đất Hà Tĩnh. Những người con luôn mong muốn quê hương mình được ấm no, đổi mới.
Quê hương trong thơ Bùi Quang Thanh không khái quát như hình ảnh đất nước mà mang nghĩa xác định nơi “chôn rau cắt rốn” của nhà thơ đất Lam Hồng. “Vùng đất “địa linh nhân kiệt” ấy đã ban phước lộc cho hồn thơ Bùi Quang Thanh chút hương hỏa của tiền nhân” [12, 2]. Quê hương không chỉ hiện ra ở bên ngoài mà còn cả bằng chiều sâu. Những câu thơ trong trẻo, đáng yêu nhường nào:
Khi khoai lúa xanh hàng mượt lối
Bảy chú cò bảy nốt nhạc xuân
Diều ai ngân sáo từ xa lắc
Khúc nhạc đồng quê vút trong ngần
(Bảy chú cò của tôi)
Trên mảnh đất đó sâu nặng bao nhiêu kỉ niệm về những người con quê hương. Những người cha, người mẹ, người anh em hoặc xa hoặc gần một nắng hai sương lúc lao động và cả khi đổ máu ngoài chiến trận:
Cha độc mộc ngược sông Hồng, sông Mã
Mẹ nhớ thương câu bến đợi bến chờ
Bình minh lên từ những gọng vó bè
Hoàng hôn xuống cuối lửa nương khói rẫy.
(Dáng mẹ)
Quê hương đã hiến dâng cho đất nước bao người con thân yêu trên khắp những nẻo đường: Hàng vạn tên người tên quê khắc trên ấy/ Cháu chỉ thấy điệp trùng đội ngũ xưa nay. Hình ảnh quê hương hiện lên bên cạnh những vẻ đẹp tâm hồn như Xuân Diệu với Một đời yêu một đời thơ, chị Chữ, chị Tám với những hi sinh cao cả thời chống Mỹ, cô thanh niên xung phong Võ Thị Hà người nữ anh hùng hi sinh cả tuổi thanh xuân cho quê hương...
Thơ Bùi Quang Thanh rọi sâu vào một quê hương nguồn cội với những huyền thoại núi Hồng, truyền thuyết mẹ Âu Cơ, ca dao, dân ca... Đó là sự đằm thắm, nặng tình, sâu lắng:
Chắp tay con vái tổ tiên
Ngực trần dám chịu hòn tên hai bề
Cũng vì yêu đất thương quê
Nghĩa nhân ban phát thu về bão giông
Ăn đầu gió, ngó cuối sông
Giọng trầm âm đục mà lòng thanh cao.
(Viết từ những câu ca)
Bùi Quang Thanh nói lên giọng điệu, hồn vía quê hương xứ sở Lam Giang – Hồng Lĩnh. Hồn thơ Bùi Quang Thanh là một hồn quê trọn vẹn. “thật mẫn cảm với những gì thuộc về thế giới đồng quê…, “ít bóng dáng về đô thị, nếu có thì cũng là một chút xa lạ và ngờ vực” [12, 4]. Đó cũng chính là tâm hồn luôn hướng về quê hương xứ sở với biểu tượng núi Hồng sông Lam.
Chương 3
PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN CỦA THƠ BÙI QUANG THANH
3.1. Sự lựa chọn bút pháp và thể loại thơ
3.1.1. Bút pháp
3.1.1.1. Bút pháp trữ tình, lãng mạn
Văn hay thơ có tình mới hay, dễ cảm nhận, thiếu tình, văn thơ trở nên khô khan, vô vị. Ý tưởng mới mẻ, xác đáng, văn thơ bóng bẩy, rực rỡ mà thiếu tình vẫn không rung cảm được người đọc. Thơ trữ tình lãng mạn, trước hết nó ôm ấp nội tâm của tác giả, những vui buồn, chán chường, khổ đau, thất vọng... mà trong các thứ tình thì tình yêu nam nữ được làm đề tài nhiều hơn cả và đề tài này đã làm rung động trước bao nhiêu trái tim của độc giả. Thi sĩ vốn là những người mang tâm hồn đa sầu, đa cảm, đa tình, Họ vẫy nước mắt ra mài mực để viết lên những tiếng uất nghẹn từ đáy con tim mà mỗi chữ là một tiếng thở dài, mỗi câu là một dòng lệ: Cho tôi ép nốt dòng dư lệ / Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên”. Trong thơ ca hiện đại của ta, thấy có nhiều thơ trữ tình lãng mạn. Điều này cũng dễ hiểu vì loại thơ này thường rung cảm người đọc. Thanh niên nam, nữ đang yêu nhau, các ông, các bà với những kỉ niệm tình yêu háo hức, rạo rực của thời niên thiếu còn lắng đọng trong đáy lòng nên thích đọc loại thơ này vì nó phản ánh tâm trạng vui, buồn, khổ, đau, thất vọng, chán chường của chính mình.
Bùi Quang Thanh cũng là nhà thơ không ngoại lệ. Ông làm rất nhiều thơ trữ tình lãng mạn. Dùng bút pháp này, thơ Bùi Quang Thanh dễ đi vào lòng người với câu chữ mộc mạc. Đọc thơ ông, người đọc không thấy có từ nào “vò đầu bứt tai” cả. Bút pháp trữ tình lãng mạn được Bùi Quang Thanh sử dụng từ khi còn là một anh lính vai vác ba lô đi chiến đấu ở Nam Lào và nhớ về những rung cảm đầu đời khi ông đóng quân ở Thanh Oai (Hà Tây cũ). Những cảm xúc đầu đời làm cho nhà thơ vương vấn mãi:Ai dám bảo rằng tôi chưa yêu
Đồng đội tôi ơi! Chỉ nói liều
Chưa yêu mà đã... sao vương vấn
Mà đã mơ màng hơn cả yêu.
Tôi nhớ tôi buồn tôi làm thơ
Tôi trông tôi ngóng đến bao giờ
Hình em như bóng chim tăm cá
Ôi một mối tình trong giấc mơ.
(Tình mơ)
Chất trữ tình lãng mạn luôn ngự trị trong con người Bùi Quang Thanh. Tình yêu đối với ông là liều thuốc quý cho tâm hồn ông khỏe mạnh. Đó là những đêm mưa xuân ông cùng người yêu đi dạo. Tình yêu tràn ngập trong ông:
Hạt mưa – ánh điện giăng – hạt ngọc
Trên nền khăn tím phủ tóc em
Có hai hạt gì trong đáy mắt
Lóng lánh ngập ngừng ngước nhìn lên.
(Những hạt ngọc)
Bút pháp trữ tình lãng mạn của Bùi Quang Thanh luôn tỏa ra trong thơ viết về tình yêu. Ông lấy lí do yêu thật lãng mạn:
Cô gái Thái ơi
Em bỏ bùa tôi
bằng ngây ngô con trẻ
bằng nụ cười đắm say
đôi mắt buồn dịu thế.
(Em bỏ bùa tôi)
Hay khi đi trên tàu, tâm hồn lãng mạn ấy lại làm con tim “dấy” lên đợt sóng tình yêu khi nhìn cô gái bên cạnh ngủ, tóc vương sang nhà thơ đa tình nên ông ao ước nhà tàu tắt đèn, nhưng nhà tàu không chiều theo nguyện vọng vô lý của Bùi Quang Thanh nên đèn vẫn sáng, như vậy ngủ thì thật phí quá. Nhà thơ thức để được nhìn, nhưng ra bộ tự nguyện thức canh cho giấc ngủ của người đẹp:
Nhà tàu đèn tắt đi thôi
Để người ngon giấc. Để tôi khỏi nhìn
Sợi ray miết gió rập rình
Người tin cậy xõa tóc mình sang tôi
Nhà tàu đèn tắt đi thôi
Bao nhiêu cặp mắt săm soi kia kìa...
Con tàu lao suốt đêm khuya
Và tôi hóa đá làm bia cạnh người.
(Đi tàu cùng người đẹp)
Thậm chí khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp mê đắm của tượng thần Uma – tháp Chăm (Đà Nẵng), Bùi Quang Thanh không khổi bồn chồn, xao xuyến:
Này em, (xin lỗi) – Này Nữ thần
Sao nỡ để lòng ta mê đắm
Cứ nghĩ về đây nơi cõi lặng
Mà lòng dậy sóng... Tự nàng thôi!
(Trước tượng thần Uma)
Bùi Quang Thanh còn có rất nhiều bài thơ trữ tình lãng mạn khác như: Gửi Hạnh Thuyền, Gửi người Xuân Song. Tất cả đều thể hiện bút pháp trữ tình lãng mạn, Bùi Quang Thanh không chỉ thể hiện ở tình yêu đôi lứa mà còn thể hiện rõ về vẻ đẹp của quê hương đất nước: Biển dát bạc, thuyền dong buồm, làng Thịnh lượn quanh quanh mép sóng, như chiếc đòn tre oằn nặng quảy một đầu núi Bờng và đầu kia là dãy Tiên An. Mấy mươi năm rồi giờ đây lại mở hội làng...(Một thoáng chân Tiên). Những vần thơ trữ tình nói về vẻ đẹp của thiên nhiên: Cây bỗng xanh da diết/ Đồng rực rỡ muôn hoa/ Sông Lam cùng sông La/ Lại ồn ào dậy sóng/ Cả một vùng Ngàn Hống/ Chim thú hát ca vang(Huyền thoại núi Hồng). Hay đây chính là vẻ đẹp của giá trị văn hóa: Từ nền trang Vương nhìn ra bốn phía, phía nào cũng đầy ắp giai điệu thơ – phú – dân ca. Lời kẻ sĩ mịn như Hoa Tiên, đẹp như Kiều, nghênh ngang như Uy Viễn. Lời phường cấy, phường cày mộc mạc vè dặm; tha thiết giọng đò đưa, phường vải, ca trù (Lay thức).
3.1.1.2. Bút pháp hiện thực- huyền ảo
Đây là sự kết hợp giữa cái hiện thực với với cái huyền ảo, đầy hư hư thực thực, cả hai trộn lẫn, hòa quyện vào nhau: Lời hương khói, Đêm A Lưới, Đêm pháo hoa trên sông Son, Lời ru đồng đội, Bên tượng đài liệt sỹ Phan Đình Giót...
Ở Lời hương khói, cả bài thơ, bốn khúc với bốn giai điệu khi vui khi buồn, khi đau xót, lúc buồn tủi, cô đơn của linh hồn người liệt sỹ. Nhà thơ đã thể hiện, cách nhìn không phải của người đang sống nghĩ về các liệt sỹ đã hi sinh vì Tổ quốc mà ông cho người liệt sỹ ấy nói về bản thân, nghĩ về mẹ, về quê hương, về chiến tranh, mất mát... Những vần thơ xúc động bởi nhà thơ đã khéo léo đưa vào bài thơ sự huyền ảo hòa lẫn với hiện thực tạo cho bài thơ thêm phần thực hư, huyền ảo trong hương khói: Mắt mẹ mờ sau bị bặm thời gian. Khói thành mây, nắng thành sương, lá vàng rưng rưng vườn cũ. Nón lá áo tơi treo chùng vách nhớ... Đặc biệt là ở khúc 4, Bùi Quang Thanh thể hiện hương khói hòa lẫn với nỗi đau mất mát. Nỗi đau không chỉ riêng của một người liệt sỹ nữa, không còn nằm trong khuôn khổ của một bà mẹ cụ thể mà nó lan ra cả cộng đồng, cả dân tộc bởi những mất mát quá nhiều trong chiến tranh. Cái giá cho sự độc lập, tự do của Tổ quốc quá lớn. Những dòng thơ vừa hiện thực, vừa uyền ảo thực hư: Nghèn nghẹn tiếng “ầu ơ...”, cánh võng không bàn tay hụt hẫng. Cuối vườn thu bay từng sợi nắng, dứt gì lòng mẹ? Thu ơi! Khói hương thơm đến lạnh người. Ngọn khói: tóc mây – chân hương: nguồn cội. Kẽo kẹt từ vồng tre ấm bụi “tre già măng mọc” mà thương. Những câu thơ rờn rợn ấy của lời hương khói đau lòng đến nhường bao, để rồi cuối bài thơ, Bùi Quang Thanh khẳng định lại cái thế đối lập bên được và mất, sự bất tử của những người con ưu tú đã hi sinh vì Tổ quốc, đã quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh không bao giờ phai nhạt: Nơi mẹ tiễn con đi – nơi mẹ ngóng con về - nơi đồng vọng. Sừng sững tượng đài chiến thắng – đìu hiu dáng mẹ lưng còng. Sao con là ráng mây hun hút cuối tầm, là ngọn gió thổi phơ thêm mái tóc? Con là khói mây bay giữa trời Tổ quốc, mãi không cùng trong lòng mẹ bao la.
Trong bài thơ Đêm A Lưới, Bùi Quang Thanh nói về người mẹ Vít ngày cũng như đêm luôn ra ngoài nghĩa trang A Lưới để thắp hương cho các liệt sỹ có tên và các liệt sỹ vô danh. Mẹ không phân biệt có tên hay không tên, đều chia cho “mỗi đứa một cây nhang” giữa khói mây mờ ảo. Trong không khí âm u giữa vầng trăng soi như màu sữa, cùng với màu sương và màu của hương khói tạo nên, nó hòa lẫn vào nhau, đan xen với nhau trở thành một màu trắng mờ mờ ảo ảo đầy huyễn hoặc, đầy liêu trai, và cô đơn cùng cực, nhớ nhung, run rẩy, tiếng nấc nghẹn, con mắt đỏ mòng đến cùng cực của những đứa con mãi không được trở về quê hương yêu dấu của mình:
Trăng rắc sữa qua khói sương mờ ảo
Nghĩa trang đêm quạnh quẽ lối hàng
Nghìn đứa con không tên không địa chỉ
Mẹ chia đều mỗi đứa một cây nhang
Những tiếng nấc “Mẹ ơi!” trong gió thoảng
Tượng đài cao run rẩy giọng trăm miền
Nghìn con mắt đỏ mòng đêm thương nhớ
Gió chợt dừng. Trăng lạnh. Phút giây thiêng...
Cái thực và cái ảo đi liền nhau còn thể hiện trong bài thơ Đêm pháo hoa trên sông Son. Đây là sự đau xót xen lẫn tự hào khi nhà thơ về Quảng Bình dự lễ hội di sản Phong Nha – Kẻ Bàng. Nhìn thấy các cô gái mặc áo dài đến dự buổi lễ, ai cũng rạng rỡ, xinh đẹp, nhà thơ lại chạnh lòng nhớ về “Hang Tám cô”:Vết thương chưa khô đã trốn hang bảy tầng
Bởi tiếng Tám cô kêu gào thúc giục
Phong Nha ơi! Hang động nào chứa được
Một thời, một đời chịu đựng đau thương?
Trong đem lễ hội, không khí náo nhiệt, người chen đông đúc nhưng nhà thơ vẫn không quên được hình ảnh tám cô TNXP đã hi sinh oanh liệt ở đây. Để rồi, khi pháo hoa được bung ra, cái hiện thực đau thương trong quá khứ hòa với màu sắc đa dạng của pháo hoa hiện tại làm cho quang cảnh ở đây vừa huyền ảo, vừa bí ẩn:
Kìa em! Kìa em! Kìa em!... pháo hoa
Vút từ bờ sông vút lên đỉnh núi
Trời Phong Nha – Kẻ Bàng cao vời vợi
Em lẫn vào đâu? Trời thiêng, núi thiêng này.
Em lẫn vào đâu sau xanh mướt rừng cây
Sau động thẳm hang sâu huyền ảo
Sau những cờ, xe, mặt người, sắc áo
Ôi lung linh! Em cao vút tượng đài...
Bút pháp hiện thực – lãng mạn Bùi Quang Thanh còn thể hiện trong bài Bên tượng đài Anh hùng Phan Đình Giót: Khi lồng ngực anh ấp trùm lên hỏa điểm/ Súng giặc nghẽn. Đồng đội anh xông đến/ Tổ quốc bật lên khúc khải hoàn/ Tràn ngập đỉnh đồi A1, Him Lam”. Hay: Đến thăm anh, hình như anh đi vắng/ Trong khói hương chiều vàng gió lặng/ Chợt âm u rừng lá bạch đàn:/ “Mình bận về Tây Bắc hái hoa ban”. Còn ở bài Lời ru đồng đội, Bùi Quang Thanh đưa tiếng ru vào tràn ngập cả bài thơ để ru những linh hồn liệt sỹ trong rừng sâu núi thẳm, tạo nên một sắc thái đau lòng da diết: Ngủ đi! Nào ngủ - Đường về/ Cây reo, suối hát, bộn bề lúa thơm/ Ríu hồn cọng rạ dây rơm/ Mo cau ngày ấy, nắm cơm mẹ nghèo.../ Liêu xiêu bóng đổ lưng đèo/ Giật mình thảng thốt bạn kêu cuối rừng. Những vần thơ đầy nước mắt khi nhà thơ về lại chốn rừng xưa, thăm lại đồng đội của mình đã hi sinh và được chôn trong rừng không hương khói, không người đến thăm. Cô đơn cùng cực. Vậy nên, Bùi Quang Thanh đã đến, an ủi bạn bằng cách ru đồng đội để bạn đỡ tủi phần nào.
Có thể thấy bút pháp trữ tình – lãng mạn hay bút phút hiện thực – huyền ảo đều được Bùi Quang Thanh thể hiện một cách rõ nét, đa chiều. Vì vậy trong thơ ông, hình ảnh đa chiều luôn được hiện lên đầy đủ. Trong một con người, trong một không khí hay cùng một thời điểm, những tình cảm, cảm xúc luôn đan xen với nhau, hòa vào với nhau. Có thể đó là sự đau xót xen lẫn tiếc nuối, là lòng tự hào và day dứt đi cùng nhau, là sự ngưỡng mộ đi liền với nhớ tiếc khôn nguôi... Tất cả đều được hình thành nên bởi một nhà thơ đa sầu, đa cảm, đa tình với non sông Tổ quốc, với nhân tình thế thái.
3.1.2. Thể thơ
3.1.2.1. Sự phong phú các thể thơ
Khảo sát toàn bộ thơ Bùi Quang Thanh (theo cuốn Mật ong vàng lũng núi, tập thơ tuyển) có 162 tác phẩm. Trong đó, 64 bài thơ tự do, 29 bài bài lục bát, 21 bài thơ năm chữ, một trường ca và sáu bài thơ văn xuôi. Những bài thơ không đồ sộ lắm nhưng rõ ràng khá phong phú về thể loại. Điều đó cho thấy Bùi Quang Thanh đã thể hiện sự tìm tòi hình thức thể lại khá nhiều, thử thách ngòi bút của mình trên nhiều thể loại thơ ca. Song thể loại chủ đạo trong thơ ông là thơ tự do (64 bài) và lục bát (29 bài). Các thể khác trong thơ ông (thơ văn xuôi, bốn chữ, năm chữ...) cũng để lại nhiều dấu ấn đậm nét.
3.1.2.1. Các thể thơ truyền thống và những tìm tòi "làm mới" của Bùi Quang Thanh
Lục bát là một thể thơ dân tộc truyền thống, là một hình thức nghệ thuật phô diễn tâm tình đậm màu sắc dân tộc Việt Nam. Qua bàn tay của người nghệ sĩ dân gian, của những nhà thơ Nôm khuyết danh, của những nhà thơ tài ba như Nguyễn Du,... thể thơ dân tộc này đã đạt đến trình độ là thể thơ cách luật hoàn chỉnh. Bùi Quang Thanh làm khá nhiều thơ lục bát (29/162 bài). Hầu như bài thơ nào cũng để lại ấn tượng về sự mượt mà, sâu lắng. Chẳng hạn bài Với thơ:
Mảnh trăng cong – sợi tơ vàng
Treo chung chiêng giữa vô vàn khen, chê
Ai hờ hững, ai đắm mê
Tự ru mình giữa bộn bề đa đoan.
Đây là quan niệm về nghề thơ của Bùi Quang Thanh. Ông ví thơ như một mảnh trăng cong treo lơ lửng trên bầu trời giữa vô vàn lời khen tiếng chê. Dù cho ai đó có hững hờ, ghét bỏ hay bề bộn lời khen thì ông cũng tự ru mình trong sự bề bộn của cuộc sống đa chiều phức tạp này. Đại từ ai rất quen thuộc trong ca dao. Đây là đại từ trỏ chung, chỉ mọi người. Bùi Quang Thanh sử dụng cách luật, gieo vần rất chuẩn của thể lục bát truyền thống. Trong bài lục bát Nỗi đau lòng mẹ, Bùi Quang Thanh thể hiện rất rõ nỗi đau của mẹ sau chiến tranh:
Nỗi buồn qua cánh võng gai
Đậu lên mặt mẹ ngân dài “À ơi”...
Dẫu cho đi hết cuộc đời
Mẹ ơi ánh mắt chẳng vơi nỗi buồn
Có ai níu được hoàng hôn
Có ai sẻ bớt cô đơn cùng người?
Chiến tranh đã qua lâu rồi, dân tộc bình yên đã lâu nhưng các con của mẹ mãi mãi không về. Đó không chỉ là nỗi đau của mẹ, đó là nỗi đau chung, sự mất mát chung của cả dân tộc. Ở đây, Bùi Quang Thanh tiếp tục sử dụng đại từ ai để thể hiện tư tưởng của mình. Một đại từ rất quen thuộc trong ca dao dân ca.Thơ lục bát với cách gieo vần của Bùi Quang Thanh trong bài thơ này thật đặc biệt. Cả vần chân lẫn vần lưng đều dùng vần ơi, ai, đọc lên ta thấy các từ gai, dài, đời, vơi, trời, chơi, thời... như kéo dài ra, ngân vang mãi, kéo theo nỗi đau trong lòng mẹ càng dài thêm, lâu thêm, hun hút mãi suốt cuộc đời.
Ở bài Thắp hương đền Đế Bà, Bùi Quang Thanh cảm thương cho số phận cô gái họ Đào nhỏ bé, đáng thương của thời phong kiến ngày xưa: Nỗi đau hơn cả Thúy Kiều/ Oan so Thị Kính gấp nhiều lần hơn. Cô gái họ Đào là người tình của chúa Trịnh Giang bị gia đình, làng xóm dìm chết bằng chảo thừng và cối đá trên biển. Nỗi đau ấy còn lớn hơn nỗi đau của Thúy Kiều, oan hơn Thị Kính. Khi nghe câu chuyện ấy ở Độc Sơn, Bùi Quang Thanh thương cô gái bao nhiêu thì cằm thù chúa Trịnh Giang bấy nhiêu Càng thương phận liễu càng hờn chúa si. Cô gái bị chảo thừng quấn chặt, cối đá đè nặng bị thả xuống đáy biển khơi. Đó là sự oan nghiệt nghìn năm vẫn còn đó để rồi dân làng cảm thương cho cô gái đã lập nên đền thờ gọi là đền Đế Bà. Những câu thơ lục bát mượt mà mà sao nghe thật não lòng.
Thể thơ lục bát dễ đọc, dễ nhớ, cũng rất phù hợp với các em nhỏ nên ông sử dụng rất nhiều thể lục bát trong thơ viết dành cho thiếu nhi. Trong tập Mật ong vàng lũng núi có 28 bài dành cho các em thì có đến 10 bài là thể lục bát. Đó là: Vòi hái của bà, Học chữ, Củ lạc, Cây ngô, Lời tàu cau, Tiếng rao, Cua kềnh thổi xôi, Bà em đi cấy, Ông trời cũng mặc áo tơi, Ngài ốc sên. Các bài được làm theo thể lục bát này đằm thắm, êm ái, dễ thương rất phù hợp với các em. Bài thơ Học chữ hồn nhiên, đáng yêu làm sao:
Gà trống thuộc mỗi chữ "O"
Thế mà sáng sáng gáy to nhất làng
Dê con dịch cũng rất xoàng
"Bờ..e" thì cứ hát tràn “Be…be!”
Bác Trâu nằm dưới bóng tre
Hếch mồm cười nhạt:
“Nghờ…e…Nghé à”
Qua bài thơ các em cảm nhận được đặc điểm, công việc của từng con vật: Chú Gà Trống mỗi sáng thức dậy gáy ò ó o, con Dê con kêu be be, tiếng trâu mẹ gọi nghé con... Bài thơ với sự mượt mà, giọng thơ hồn nhiên như con trẻ đọc lên vừa thú vị, vừa vui tươi, hóm hỉnh. Bài Bà em đi cấy cũng vậy:
Bà em đi cấy đồng sâu
Áo thâm thêm lớp, gói trầu mặn vôi
Lạt dang thắt tó quanh người
Trông như bó mạ, bà cười: “Oách không?”
Bùi Quang Thanh miêu tả bà đi cấy thật khác mọi người. Đi cấy là công việc đồng áng vô cùng vất vả mệt nhọc của người nông dân nhưng dưới cái nhìn của nhà thơ, ông đã cho các em nhỏ nói riêng và độc giả nói chung được nhìn nhận qua cách khác. Đó hình ảnh bà với đầy “phụ kiện” đeo quanh mình khi đi cấy. Đây là những vật dụng dành riêng cho bà: “gói trầu”, “vôi”, “cối trầu&rdquo những thứ bà dùng để cấy: “lạt giang” được bà thắt quanh người, “áo tơi nón lá”, “gánh mạ oằn vai”. Từ công việc nặng nhọc của ngày thường với bà con nông dân mà qua hình ảnh người bà ta thấy hiện lên một người bà yêu công việc, yêu cuộc sống. Nhìn bà như một bó mạ với trầu, cau, vôi, cối trầu, lạt giang dắt quanh người. Khi bà cười, hàm răng đen đã “sún hết nửa phần”. Thật ngộ nghĩnh, đáng yêu.
Cũng như hai bài thơ trên, các bài thơ lục bát còn lại đều dễ đọc dễ nhớ và vô cùng đáng yêu. Hình ảnh mặt trời được Bùi Quang Thanh liên tưởng:
Thấy bà em mặc áo tơi
Đi trong mưa gió mà người vẫn khô
Trời bèn xuống chợ hỏi dò
Tìm mua cái áo vừa to, vừa dài...
Hay là hình ảnh con ốc sên trong bài Ngài ốc sên trèo lên tụt xuống để nhặt rau và chào mọi người nhưng khi chú ếch vồ lưng một cái thì “râu ngài co luôn”. Rồi lời thì thầm của “cậu” tàu cau với các bạn nhỏ, con Cua Kềnh thổi xôi để mời các bạn đến ăn... Toàn là những hình ảnh được Bùi Quang Thanh liên tưởng, tưởng tượng nên chúng trở nên ngộ nghĩnh, thơ ngây như con trẻ.
Có thể nói, thơ lục bát của Bùi Quang Thanh rất trữ tình, đằm thắm, mượt mà và đáng yêu. Nó cho ta cảm giác thư thái, êm đềm khi cảm nhận.
Những bài thơ 5 chữ, nhà thơ cũng đi tìm một âm hưởng riêng. Những vần thơ ấy thường có nhịp đều đều (thường là 3/2 hoặc 2/3, cuối đoạn thường hạ thấp xuống bằng một âm trầm, nặng rất thích hợp cho việc kể. Âm điệu của đoạn thơ thường được chú ý hơn âm điệu của câu. Ta có thể đọc liền mạch cả đoạn, rồi nghỉ lấy hơi, đọc tiếp đoạn sau:
Chín chín đỉnh non Hồng
Thiếu một nơi chim đậu
Phượng Hoàng bay về đâu
Giữa mây trời xa rộng
Núi giăng thành thế sóng
Không ngăn nổi chim trời
Tình như ngàn mắt lưới
Mong vớt hoài sao rơi...
(Chơi vơi)
Các bài thơ hay sử sụng cách láy lại từng cặp câu để cảm xúc liên kết các phần của bài thơ. Câu đầu đoạn dưới hay láy lại câu cuối đoạn trên, có khi láy lại cả câu, có khi láy một số từ, có khi láy cả ý lẫn lời....
Ở bài Điệp khúc dã tràng, tác giả lật lại quá khứ tìm cho mình một cảm xúc trong công việc tưởng như vô nghĩa của dã tràng: Giữa hai lần tàn phá của Sóng - Gió - Thời gian, dấu chân nhỏ nhoi lại in đầy trên cát.... Dã tràng tìm trong cát những tinh hoa của sự sống như ta ta tìm hạt thóc. Một ý thơ táo bạo, đầy day dứt: Lũ sóng bọt bèo và độc ác, cứ dâng lên xóa sạch các công trình...Thiên hạ mê tiếng sóng dào dạt, ít ai nghe điệp khúc dã tràng. Có cái gì nhắc nhở, gọi con người tìm đến vẻ đẹp của những công trình tuy không hiện hữu nhưng lại khắc sâu để lại dấu ấn trong thời gian.
3.1.2.2. Thơ tự do và những sáng tạo của Bùi Quang Thanh
Nếu Thơ mới ra đời vào khoảng năm 1932 và phát triển như vũ bão trong khoảng hai thập niên, để lại dấu ấn quan trọng trong lịch sử văn học, thơ ca Việt Nam với những cái tên lẫy lừng như TTKH, Thâm Tâm, Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu trọng Lư, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính... thì khoảng hơn hai mươi năm sau, vào năm 1955, trên các thi đàn Việt Nam bắt đầu xuất hiện một thể thơ, mới hơn cả thơ mới. Đó là thơ tự do. Thật ra, có thể nói thơ tự do xuất hiện từ rất sớm ở các quốc gia phương Tây: Pháp, Anh, Đức, Mỹ, Nga... và bùng phát mạnh mẽ sau thế chiến thứ hai, như là một cách giải thoát những uẩn ức, những cô đọng, những chất chứa, được tích lũy trong thời tao loạn. Tất cả những tích lũy ấy dồn ép thành thơ ca dưới dạng phóng túng nhất của ngòi bút: thơ tự do, với tất cả những phá cách tiêu biểu, như thể là sự giải phóng tâm hồn khỏi áp bức của những luật lệ, vần cũ vậy. Về hình thức, thơ tự do có số chữ trong một câu không hạn định, ít nhất một từ và nhiều thì có thể trên chục từ. Số câu cũng không hạn định và không chia thành bốn khổ như cũ nữa. Không có khái niệm về niêm, luật, đối, về vần cũng vậy, không có một luật lệ cố định nào. Về nội dung, thơ tự do thường có nhiều âm thanh, hình tượng, màu sắc đa dạng và phong phú, biểu thị những cách dùng từ hết sức mới lạ, mang tính cách tân, không hàm chứa những hình ảnh cũ kĩ, sáo mòn như trăng vàng, hồ thu, giọt sầu... nữa. ý thơ thì hết sức đa dạng, không gò bó trong bất cứ khuôn khổ nào, nhưng đa phần đều đề cập đến những vấn đề cốt lõi của nhân sinh, của kiếp người...
Thơ tự do chiếm lượng nhiều nhất trong suốt hành trình sáng tạo thơ của Bùi Quang. Sự đa dạng, biến hóa trong cách cấu trúc, cấu tứ của thơ được Bùi Quang Thanh thể hiện rất rõ trong thể thơ này. Chẳng hạn trong bài Đối mặt với tử thần:
Khi lưỡi gạt chiếc máy ủi cà vào vỏ quả bom nổ chậm
Tiếng rít lên như cánh cửa tử thần
Những sợi tóc sau gáy anh đội mồ hôi đứng dậy
Chân ga chùng, tay số bỗng phân vân
Hai khổ với số dòng không đều nhau, số chữ cũng không giống nhau. Khi cảm xúc thay đổi theo tình huống thì câu chữ của dòng thơ nó cũng hiện ra khác nhau. Khổ đầu bài thơ, Bùi Quang Thanh nói đến anh thanh niên xung phong lái xe ủi để gạt bom cho xe thông tuyến. Bánh xe kề sát quả bom tất cả như ngưng lại, hồi hộp, lo lắng:
Nắng Đồng Lộc đỏ
Trời Đồng lộc trong
Nước mắt mặn trên môi đồng đội
Có trái tim của người con gái
Thắt nghẹn phía sau anh.
Tất cả đều nín thở theo dõi cuộc chiến tử - sinh của người thanh niên xung phong đang làm nhiệm vụ thiêng liêng cho dù sự sống và cái chết chỉ cách nhau gang tấc... Như đã nói ở trên, thơ Bùi Quang Thanh thuộc dòng thơ trữ tình truyền thống, “Lấy cái chân thật của tình cảm làm gốc, dẫu vậy trong nhiều bài anh đã tiếp cận kĩ thuật mới làm hình tượng thơ vừa lạ, vừa quen, hấp dẫn người đọc ngay từ dòng đầu như Lời hương khói, Thằng Cuội, Huyền thoại núi Hồng... lối kết cấu liên hoàn, ngôn ngữ vừa cổ kính vừa dân dã, hình tượng thơ vừa thực vừa ảo, kết hợp hữu thức và vô thức, trong hương khói mơ màng của thời gian xưa nay gợi một cảm thức vừa bâng khuâng, luyến tiếc vừa thành kính mến yêu, lãng đãng những mơ hồ nghi vấn, nhiều nỗi niềm, tình cảm cùng xuất hiện trong tâm hồn cùng lúc khiến người đọc không dễ nguôi quên” [38, 195]. Sự đa hình trong thơ hiện đại nhiều khi dần đến lĩnh vực tượng trưng gây những xúc cảm thẩm mỹ táo bạo. Những hình tượng thơ đầy tính tượng trưng như Dã tràng, Cuội, Thạch Sanh, ông Đùng được tác giả sử dụng quen thuộc nhưng không cũ nhàm mà gợi được được những cảm xúc mới mẻ thích thú cho người đọc. Hãy nghe tác giả kể về Cuội: Nằm mãi gốc đa cũng chán, chú Cuội chuồn khỏi cung trăng...Ngân Hà sao trôi lấp loáng, chú vịt lạc bầy lang thang. Và bên bờ lão Thần Nông, vác điếu ra sông đốt thuốc,, râu tóc bơ phờ khét lẹt. Khói bay trắng nửa dòng xanh (Thằng Cuội).3.1.2.3. Thơ văn xuôi
Hơn nửa thế kỷ nay ở ta đã làm quen với cụm từ Thơ văn xuôi từ những bài thơ đầu tiên của Phan Khôi,... Thực ra đấy là một thuật ngữ du nhập từ phương Tây, nó bắt nguồn từ những câu thơ thác nước tuôn dài mãnh liệt, những câu thơ như những con sóng biển từ đại dương cuộn xô vào bờ biển, những câu thơ đồ sộ kiểu Whitman hay những câu thơ cuộn trào cảm xúc triết học kiểu Tagor, và thường là nó được trình bày dưới hình thức văn xuôi, chỉ xuống dòng sau khi đã tạo ra chiết đoạn, chữ không xuống dòng theo hình thức thơ có vần hoặc không vần. Như vậy hai chữ văn xuôi trong thuật ngữ thơ văn xuôi chỉ mang ý nghĩa hình thức ước lệ mà thôi.
Trong tập tuyển chọn Mật ong vàng lũng núi có 8 bài được Bùi Quang Thanh viết theo thể thơ văn xuôi. Thơ văn xuôi là một thể thơ tự do nhưng chúng ta tách riêng thành một mục riêng về thể loại thơ này của Bùi Quang Thanh bởi ở mảng thể nghiệm này, ông đã đạt được thành công nhất định. Ông có nhiều thành công về mảng văn xuôi: Lời hương khói, Dáng mẹ, Một thoáng chân tiên… là những bài tiêu biểu. “Với một lối thơ mang tính thử nghiệm, nhưng với tình cảm chân thành, ngôn ngữ trong sang” Bùi Quang Thanh “đã làm xúc động người đọc một cách sâu sắc. Cái mới của loại thơ này không chỉ ở câu chữ mà chính ở cách cảm nhận tinh tế không đi theo lối mòn dù khi viết về những đề tài rất truyền thống” [38, 190].
Bùi Quang Thanh từng là người lính. Các đồng đội của ông biết bao nhiêu người ngã xuống ở chiến trường. Chiến tranh là đề tài luôn ám ảnh đối với nhà thơ… Bài thơ văn xuôi Lời hương khói nói về nỗi buồn chiến tranh không khỏa lấp được. Bài thơ là lời của một liệt sĩ. Hình ảnh đầu tiên là nói về mẹ: Trước khi lẫn vào thinh không khói bếp Mẹ nhen níu mãi vào rơm rạ. Giọt buồn cay xè mái lá. Cao rộng trời mây không gói nổi khôn cùng của kẻ ly hương. Mắt mẹ mờ sau bụi bặm thời gian. Khói thành mây, nắng thành sương, lá vàng rưng rưng vườn cũ. Nón lá áo tơi treo chùng vách nhớ. Vòi hái cong, lưỡi liềm cong ngoéo một thủa ruộng đồng. Người con liệt sĩ nhớ về mẹ, mang theo khói bếp quê nhà, mang theo khu vườn tuổi thơ của mình. Nhớ mẹ, liệt sĩ nhớ nón lá áo tơi, vòi hái, lưỡi liềm, một vật quen thuộc của người mẹ, người chị, người em khi ra đồng làm việc. Mắt mẹ mờ sau bụi bặm thời gian, hay chính là mờ sau khi mong ngóng tin con, nhớ thương đau khổ khi con không về với mẹ. Nỗi cô đơn, niềm đau đáu đứt từng khúc ruột đã làm mắt mẹ mờ đi? Hẳn rồi. Những câu thơ man mác buồn, chậm rãi như tiếng thở dài.
Thơ văn xuôi được hình thành từ cảm xúc và ý tưởng khởi thành một lúc trong cảm quan rộng lớn, “Khi nhịp điệu của thơ văn xuôi được hình thành bởi những sợi cực mỏng nhưng với độ rung vang cực nhạy, nó được chìm lẫn trong ngôn ngữ với những cảm xúc và ý tưởng hòa quyện. Cái nhịp điệu với độ rung đặc biệt này nó làm cho thơ văn xuôi không thể lẫn với văn xuôi và đương nhiên nó khác biệt hẳn với thể thơ ra đời trước nó” [44, 1]. Ta bắt gặp cảm xúc và ý tưởng trong thơ văn xuôi của Bùi Quang Thanh: Ai trong số những người con của mẹ trở thành thần Khoai, thần Lúa? Ai đóng cối xay, ai ghép ván thuyền? Mảnh buồm đầu tiên căng gió ra khơi làm bằng vỏ cây hay bằng phên tre nứa (Dáng mẹ). Nhà thơ đưa ra những câu hỏi về ý tưởng, phát minh của dân tộc từ thủa Mẹ Âu Cơ. Dù trải qua hàng nghìn năm từ thời mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trứng rồng, đến nay vẫn không ai tạc nổi hình dáng của mẹ thủa xưa: Mẹ là người đàn bà đầu tiên trong cổ tích dựng nước non bằng một bọc trứng rồng. Đất nước vững bền tự bốn ngàn năm. Chưa ai tạc nổi dáng hình của mẹ(Dáng mẹ).
Bài Chúng tôi đón mùa xuân từ phía mặt trời lên, Bùi Quang Thanh viết về bộ đội biên phòng Hà Tĩnh với tình cảm ấm áp, nồng hậu. Đây cũng là một bài thơ văn xuôi nói về người lính nhưng không đau khổ, chết chóc, tiêc nuối, cô đơn, buồn bã như các bài thơ khác. Những câu thơ Rất khó xuống dòng ấy là niềm tự hào khi non sông đất nước đã bình yên. Chúng tôi đón mùa xuân từ phía mặt trời lên. Biển rộng quá. Trời bao la quá. Thiên Cầm – Hoàng Sơn là những chàng trai tham lam định sục chân vào biển, thấy chiến sĩ biên phòng vội giả bộ làm ngơ. Mặt trời chưa lên, những ngôi sao trên mũ làm sáng mặt Nàng hơn. Gió dìu nàng đi khắp mọi miền: Cửa bể, bến sông, đường làng, ngõ phố. Người lính biên phòng mắt nhìn ra biển cả vẫn biết sau lưng mình sự sống mãi bình yên. Giữa cảnh biển, trời, Thiên Cầm, Hoành Sơn gắn liền hình ảnh anh bộ đội với ngôi sao trên mũ giữ gìn bình yên cho đất nước, cho nhân dân. Khi người lính ấy hướng mắt ra biển canh giữ đất nước thì anh biết sau lưng anh là cả một mùa xuân tươi đẹp, đắm say lòng người. Bên cạnh đó, Một thoáng chân tiên Bùi Quang Thanh thể hiện vẻ đẹp quê hương của ông. Vẻ đẹp lộng lẫy, huyền ảo, mơ màng được ông hiện ra với cảnh, người, đất trời bao la: Kìa: bàu Tiên ngăn ngắt, hình thế như bàn chân một khách siêu phàm, triền núi ôm nước biếc mơn man, ba bề núi, một phía làng thấp thoáng ... Cảnh vật với Bàu Tiên, núi ôm nước biếc; những dấu tích xưa về truyền truyết Bàu Tiên. Ở đây, ta bắt gặp một Bùi Quang Thanh không với tâm hồn phơi phới say sưa ngắm cảnh tiên, ngắm vẻ đẹp của non sông đất nước. Ông thể nghiệm loại thơ văn xuôi này, và nhà thơ đã lựa chọn đúng khi những bài thơ văn xuôi của ông được bạn đọc đón nhận nhiệt tình. Thành công đã đến với ông khi bài thơ văn xuôi Lời hương khói đạt giải cao trong một cuộc thi lớn. Đó là sự an ủi, niềm hạnh phúc lớn của người làm thơ, nhất là dành cho những ai biết sáng tạo nghệ thuật.
3.2. Nghệ thuật tổ chức giọng điệu và ngôn từ thơ của Bùi Quang Thanh
3.2.1. Giọng điệu và nghệ thuật tổ chức giọng điệu thơ của Bùi Quang Thanh
Trong nghệ thuật, khái niệm giọng điệu được hiểu là “Thái độ, tình cảm, lập trường, tư tưởng đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được mô tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu, tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân, sơ, kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm” [27, 1]. Giọng điệu thuộc về chủ thể sáng tạo thẩm mĩ. Với thơ thì đó là giọng của nhà thơ, của chủ thể thữ tình.
Trong thơ Bùi Quang Thanh giọng điệu được biểu hiện hết sức đa dạng: vui có, buồn có, ngưỡng mộ, hi vọng, ân hận, day dứt, lay thức, hào sảng, trữ tình, lạc quan, thống thiết... tất cả đều được ông biểu hiện sâu sắc. Ông tập trung vào giọng hào sảng lạc quan. Một người lính trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước nên Bùi Quang Thanh không thể không đi theo hướng chung của thơ ca kháng chiến thời kì này. Đó chính là giọng điệu hào hùng, sảng khoái.
Kháng chiến chống Mĩ cứu nước đã đi qua nhưng dư âm về một thời bom rơi đạn nổ vẫn mãi mãi sống với những người đi qua chiến tranh, trong đó có Bùi Quang Thanh. Ông nhớ lại một thời khi gặp lại cô gái mở đường ngày nào:
Phải em là cô gái nhỏ
Một thời xẻ dọc Trường Sơn
Một thời đanh bom gian khổ
Vẫn vui hát khúc mở đường.
(Gặp lại cô gái mở đường)
Đây chính là tinh thần bất khuất của các chiến sĩ khi đi chiến đấu. Mặc cho “lửa bom gian khổ”, họ vẫn lạc quan, yêu đời, tin vào ngày mai tươi sáng. Chính điều đó đã góp một phần không nhỏ vào chiến thắng của dân tộc ta. Cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp, đế quốc Mĩ đã cho ta thấy những con người làm nên lịch sử. Trong đó có anh hùng Phan Đình Giót. Bùi Quang Thanh viết về người anh hùng này với giọng thơ đầy lạc quan: Khi lồng ngực anh ấp trùm lên hỏa điểm/ Súng giặc nghẽn. Đồng đội anh xông đến.../ Tổ quốc bật lên khúc khải hoàn/ Tràn ngập đỉnh đồi A1, Him Lam (Bên tượng đài Anh hùng Phan Đình Giót).
Bên cạnh giọng hùng ca ấy, thơ Bùi Quang Thanh còn có giọng trữ tình thống thiết. “Nếu giọng điệu hùng ca khởi phát từ cảm hứng sử thi thì giọng điệu trữ tình thống thiết lại được sản sinh từ bản chất thể loại và mỹ cảm của nhà thơ” [27, 2]. Giọng trữ tình thống thiết trước hết được xuất phát từ cảm hứng rưng rưng trước vẻ đẹp của quê hương đất nước:
Núi Hồng như có châu sa
Lam Giang lắng dòng quên chảy
Chim Phượng đầu đàn lộng lẫy
Đảo mình ngó khắp bốn phương.
(Huyền thoại núi Hồng)
Những đoạn thơ đầy chất trữ tình khi Bùi Quang Thanh nói về mẹ Âu Cơ và các con của mình: Cô gái nào là dâu đầu chị cả biết kết nón quai thao, biết đan áo tơi tằm? Điệu hát đầu tiên ru trẻ dưới đồng bằng có na ná câu then, câu lượn? Ai cho con tằm ăn lá dâu thay lá sắn để kén thành tơ, tơ thành lụa, mớ ba mớ bảy dập dìu? (Dáng mẹ)…Tình thư viết về liệt sĩ Võ Thị Tần – một trong mười cô thanh niên xung phong ở Ngã Ba Đồng Lộc. Nơi chị ngã xuống giờ đã thành tượng đài sừng sững. Giọng thơ ở đây không bi lụy, mặc dù nói về mất mát:
Chị xa lắm rồi. Những lớp đất nâu
Cỏ và hoa đan đầy mộ chí
Chỗ ngày xưa bom vùi Mười Chị
Hậu thế xòe hoa những tượng đài
Chỗ ngày xưa chị run nét bút
Thư – thành tài sản của Hôm Nay.
Chất giọng trữ tình nhiều khi được đẩy đến thống thiết. Đó là những bài thơ viết về nỗi đau của người mẹ, người vợ mà chồng, con họ không trở về trong hai cuộc kháng chiến trường kì đã qua:
Tay già run rẩy bờ nôi
Nỗi đau lòng mẹ sau thời chiến tranh
(Nỗi đau lòng mẹ)
Nỗi đau đớn khi tác giả đến thăm liệt sĩ Võ Thị Hà – một trong mười cô thanh niên xung phong trẻ tuổi nhất:
Chén rượu trắng chắc em không biết uống
Khói hương thơm bay hết cả lên trời
Giọt lệ anh rơi vào lòng đất
Có ấm chỗ em nằm? Hà ơi!
(Hà ơi)
Ngoài ra cò có giọng điệu triết lí, suy tưởng, suy tư. Ông suy tư vì cái chưa hoàn hảo trong cuộc sống hiện tại: Cái cũ thì hóa đá/ Cái mới chưa ai xây/ Khói lên trời cứ bay/ Lệ nàng Kiều vẫn chảy, suy nghĩ về thói vụ lợi, thói háo danh của người đời: Thiên hạ mê tiếng sóng dã tràng/ Ít ai nghe điệp khúc dã tràng. Những suy tư, day dứt về cuộc đời, về mẹ, về cuộc sống của mỗi chúng ta:
Da diết nỗi tình thâm mẫu tử
Mẹ hát ru tôi, mẹ hát ru mình
Công trời bể sinh thành trong bài ca ấy
Chẳng nhắc gì về cuộc chiến tranh
Chẳng nhắc gì mà cứ oằn lưng mẹ:
Đứa lên một, lên hai
Đứa lên ba, lên bốn
Đứa bé bao giờ lớn
Đứa lớn bao giờ khôn
Đứa khôn bao giờ cậy...?
Lời mẹ ru mỏi mòn.
(Mẹ chọn năm sinh tôi)
Cuộc sống vốn muôn hình vạn trạng. Nhà thơ đi đâu cũng bắt gặp những điều mà “tai nghe mắt thấy” và thế là cảm xúc dâng trào. Có thể đó là những hình ảnh gợi nhớ đến một thời gian khổ trong chiến tranh, có thể là những bữa cơm với bạn bè làm cho nhà thơ suy nghĩ đến ngày mai, cũng có thể là khi tác giả cảm thấy cô đơn trong cuộc sống... Tất cả đều được Bùi Quang Thanh đưa vào thơ, thể hiện trong thơ bằng các giọng điệu khác nhau, đem đến cho người đọc cái nhìn đa chiều về cuộc sống.
3.2.2. Nghệ thuật tổ chức giọng điệu thơ của Bùi Quang Thanh
Cách tổ chức giọng điệu thơ của Bùi Quang Thanh ta có thể nhận ra. Đó là xét về hai khía cạnh: Giọng thơ về mặt xã hội và giọng điệu về mặt “vật lí”.
Xét về giọng thơ mang tính xã hội, Bùi Quang Thanh rất đa dạng, phong phú về giọng thơ này. Trước hết là giai điệu vui tươi của tình yêu đầu, những rung cảm rất thật của anh lính trẻ lần đầu vương vấn:
Có phải vô tình tôi gặp em
Đêm hội xuân ngát ánh đèn
Ơi người con gái xinh xinh ấy
Chỉ một thoáng gần như đã quen.
(Tình mơ)
Tình yêu luôn làm cho chúng ta thăng hoa trong cuộc sống. Bùi Quang Thanh yêu rất đắm say, mãnh liệt:
Cô gái Thái ơi
Em bỏ bùa tôi
Bằng ngây ngô con trẻ
Bằng nụ cười đắm say
Đôi mắt buồn dịu thế...
(Em bỏ bùa tôi)
Bên cạnh giọng điệu vui tươi của tình yêu đôi lứa, ta bắt gặp giọng thơ tràn đầy tự hào về con người, về quê hương, về đất nước:
Tiếng cuốc xẻng đào chiến hào tiếp cận
Ôi hoành tráng những ngày đêm “vây lấn”
Cánh tay các anh siết chặt kẻ thù
Trận quyết chiến này âm hưởng đến thiên thu.
(Bên tượng đài Anh hùng Phan Đình Giót)Hay:
Về đây em thành phố vinh quang
Thành phố của niềm tin, kiêu hãnh
Cuộc đời mới là tình yêu là đôi cánh
Cho con tàu bay về phía tương lai.
(Thành phố của tương lai)
Bùi Quang Thanh là người con đối với quê: “Đi xa cũng muốn về, khổ đau càng muốn về” (lời bài hát) nên khi mình chưa làm được gì cho quê nhà, ông cảm thấy mình thật bất lực. Đây là giọng điệu tự trào:
Tình xưa vẫn đẹp nguyên trong mộng
Như cánh đò ngang sóng vật vờ
Mẹ quê xanh hết dâu triền bãi
Con là tằm điếc chẳng bông tơ.
(Với người tiễn bạn về quê)
Đối với ông, đó còn là sự lay thức, là day dứt về cuộc đời, về bản thân: Tôi là tôi thôi: lu mờ, nhỏ nhoi, nếu sôi động chút nào – có chăng – cũng vì miếng ăn tấm mặc, cũng vì gió lay mưa thức trong xôn xao chợ búa kiếp người. Tôi là tôi thôi: kẻ mắc nợ trần gian như chúa Chổm – nợ bầu trời một ngụm ô xi, nợ cánh đồng một bông lúa chín, nợ mẹ đôi bầu sữa lép với câu đò đưa bên cánh võng ngọt ngào. Tôi nợ giọt mồ hôi trượt qua nếp hằn trên trán bố, nợ cây đa đầu làng chìa râu cho tôi ru võng tuổi thơ (Lay thức).
Đó còn là sự day dứt, ân hận khôn nguôi về những sai lầm trong cuộc sống, trong chiến đấu:
Chết trong mẹ niềm tin gieo hạt giống
Sống trong con hạt giống chẳng nguôi tàn
Bao mùa lạc đời vẫn dâng sức sống
Con cúi đầu
hồn trắng một vành tang.
(Hạt đắng)
Giọng điệu thể hiện rõ trong thơ Bùi Quang Thanh là giọng buồn, cô đơn trước tình yêu không còn:
Phía biển xa một ngôi sao nhấp nháy
Cũng đơn côi, cũng ngơ ngác kiếm tìm
Trăng chẳng mọc trong lòng người hiu quạnh
Đêm vật vờ lạc lõng một cánh chim.
(Hoàng hôn cô đơn)
Không chỉ tình yêu không còn mới có cô đơn , buồn bã mà trong cuộc sống, những va vấp, những biến cố của cuộc đời, những điều nhà thơ tai nghe mắt thấy ông cũng cảm thấy cô đơn: Đêm cô đơn. Nỗi buồn bò lên da lưng tê tê những bàn chân nhện, xoáy vào trong khói thuốc tôi phả qua đình màn. Một nỗi buồn bị cắt thành trăm nỗi buồn. Trăm nỗi buồn bay đi trăm phương để sớm nay màu sương bàng bạc... (Song hành). Bên cạnh giọng thơ buồn, cô đơn còn có giọng uất hận, xót xa:
...Nghẽn lòng chuyện cũ Độc Sơn
Càng thương phận liễu, càng hờn Chúa si
Vẫn còn đây Đấng Từ Bi
Sao người nỡ mặc nữ nhi một mình?
(Thắp hương đền Đế Bà)
Còn đây là sự tiếc nuối, bất lực: Anh như con sóng gầm gào tung bờm trên mặt nước/ Không che chắn nổi bốn bề con cá nhỏ nhoi ơi! (Thả em về với biển thẳm trùng khơi).
Như vậy, xét về mặt mang tính xã hội, thơ Bùi Quang Thanh có đầy đủ sắc thái giọng điệu. Vui có, buồn có, tự hào, tự trào có, cô đơn, buồn bã, day dứt, lay thức, xót xa, đau khổ... đều được ông thể hiện rõ nét. Mỗi vần thơ mang mỗi giọng điệu đều thể hiện những sắc thái tình cảm khác nhau.
Giọng thơ Bùi Quang Thanh đa dạng về mặt xã hội thì cũng rất phong phú về cường độ vật lí. Trong thơ ông, giọng điệu nhanh, dồn dập hay chậm rãi, khoan thai đều mang đến cho người đọc sự hứng khởi, cảm nhận rõ nét. Điều ấy thể hiện rõ ở các vần thơ:
Tiếng quốc xẻng đào chiến hào tiếp cận
Ôi hoành tráng những ngày đêm “vây lấn”
Cánh tay các anh siết chặt kẻ thù
Trận quyết chiến này âm hưởng đến thiên thu.
Khi lồng ngực Anh ấp trùm lên hỏa điểm
Súng giặc nghẽn. Đồng đội Anh xông đến...
Tổ quốc bật lên khúc khải hoàn
Tràn ngập đỉnh đồi A1, Him Lam.
(Bên tượng đài Anh hùng Phan Đình Giót)
Giọng thơ thật đanh thép, dồn dập với “tiếng quốc xẻng” và khi lồng ngực anh Phan Đình Giót trùm lên hỏa điểm. Từ giây phút đó, quân ta đã tiêu diệt kẻ thù và bật lên khúc ca khải hoàn của Tổ quốc. Những câu thơ nhanh, gấp gáp như chính hành động can trường của anh hùng Phan Đình Giót vậy. Còn đây là nhịp thơ nhanh, như reo vui đón mừng điều tốt đẹp đang đến:
Cả bầy chim đồng thanh:
“Dừng đây thôi. Tuyệt! Tuyệt!”
Cây bỗng xanh da diết
Đồng rực rỡ muôn hoa
Sông Lam cùng sông La
Lại ồn ào dậy sóng
Cả một vùng Ngàn Hống
Chim thú hát ca vang...
(Huyền thoại núi Hồng)
Những câu thơ sau là sự nghẽn lại khi các thanh niên xung phong làm nhiệm vụ gạt bom ra khỏi đường cho xe thông tuyến: Mặc nỗi sợ dựng lên vón tóc/ “Nó” đây rồi – bánh xích cứ trườn lên/ Gạt quả bom ra khỏi tim đường/ Đẩy thần chết đến ngoài tầm nguy hiểm/ Anh xỉu xuống trong tiếng hò thông tuyến/ Có cặp mắt vừa khóc vừa cười của cô gái sát môi anh. Đây là ranh giới vô cùng mong manh giữa sự sống và cái chết nhưng tinh thần quả cảm đã chiến thắng. Giọng thơ thật hào sảng như ngưng lại trong sự nguy hiểm rồi bật lên trong tiếng reo hò của đồng đội. Giọng thơ thật biến hóa, linh hoạt.
Bên cạnh giọng thơ nhanh, dồn dập ấy, vẫn có giọng thơ chậm rãi, khoan thai, như tiếng suối chảy hiền hòa trong nắng sớm: Em nhìn kia: phía ráng đỏ là cuối dòng sông; nơi lát nữa vừng dương sẽ mọc, nơi gặp gỡ của nguồn non mạch nước và con đò đêm chúng mình sẽ cập bến Long Ngâm. Long Ngâm – vẫn là những thân rồng xoắn quyện vào nhau thành hình hài xứ sở - đã nghe nồng mặn xóm diêm, xóm chài, sóng lay bờ đá... muôn âm thanh hòa tấu tự Thiên Cầm vọng mãi Đèo Ngang. Kỳ vĩ thắng cảnh, xúc động bởi chiến công, một dải non xanh nước biếc trập trùng mà hội tụ bao thăng trầm lịch sử... (Nơi ấp trứng). Giọng thơ nhẹ nhàng, tha thiết nói về thiên nhiên tươi đẹp của quê hương - vẻ đẹp trong lành, mát dịu của bến, của sông, vẻ đẹp của cha ông huy hoàng một thuở. Còn ở bài Ngày trở về, giọng thơ chậm rãi, yên ả:
Mái rạ nghèo dưới lũy tre xanh
Mẹ già ơi
Em gái ơi
khói lam chiều thoảng quá
Đàn sẻ nhỏ lao xao vòm lá
Mít cuối vườn tránh nắng đợi người xa
Như vậy, về cường độ vật lí, giọng thơ của Bùi Quang Thanh biến hóa linh hoạt: lúc nhanh, dồn dập, dứt khoát khi lại nhẹ nhàng, chậm rãi, thiết tha.
3.2.3. Ngôn ngữ thơ và nghệ thuật tổ chức thơ của Bùi Quang Thanh
3.2.3.1. Từ ngữ và các lớp từ ngữ trong thơ Bùi Quang Thanh
Từ ngữ là đơn vị nhỏ nhất, là những viên gạch đầu tiên để xây nên ngôi nhà – tác phẩm. Đọc Bùi Quang Thanh, ta có cảm nhận trước hết từ ngữ trong thơ ông không phải được lấy từ chương, sách vở mà đó là ngôn ngữ thực sự của đời sống. Khảo sát vốn từ ngữ trong thơ ông chúng tôi nhận thấy hầu hết đều là ngôn ngữ lấy ra, chắt ra từ đời sống. Có đến gần 75% ngôn ngữ đời sống xuất hiện trong thơ ông.
Đó chính là thứ ngôn ngữ giao tiếp dùng trong hàng ngày. Lời nói được sử dụng trong sáng tác văn học làm thành ngôn ngữ văn học nói. Chẳng hạn, khi viết về món quà đặc sản quê hương ông: kẹo cu – đơ, Bùi Quang Thanh đã đưa từ gọi - đáp, thứ ngôn ngữ hàng ngày mà chúng ta thường dùng. Như anh nói với em, vợ nói với chồng: Phải là lạc cúc anh ơi hay: Nhưng không được nướng quá giòn, nghe anh (Quà quê). Hay ở bài Hạt rượu nhà thơ dùng từ “hắn ta” trong câu Hắn ta mới ngã lăn quay ông nhân cách hóa để nói về chai rượu. Đó là cách nói bông đùa của ngôn ngữ hàng ngày cho vui, cho tếu. Ở Điệp khúc dã tràng, Bùi Quang Thanh đã dùng những lời nói hàng ngày để chỉ con sóng – kẻ điêu toa, dọa dẫm: “Sóng – (bọt bèo của biển) lúc nào cũng trèo lên bờ dọa dẫm. Sóng – kẻ điêu tao hát những lời mờ ám”. Tác giả mỉa mai những con sóng lúc nào cũng vỗ về khua dào dạt nhưng chính những con sóng ấy là những kẻ dọa dẫm, là kẻ điêu toa đã xóa bỏ các công trình. Đây là những lời nói như đang tâm sự với chúng ta: Hôm nào cô gái trong quán bia ôm gục vào vai tôi khoác suốt; em không nhận những đồng tiền thương xót của tôi; lại đêm qua cô bé nhà bên đi mừng sinh nhật bạn, chiếc xe đạp mi-ni Tàu không cánh mà bay (Song hành). Đó là những tâm sự buồn mà nhà thơ nhận thấy trong cuộc sống xung quanh ông và bên cạnh chúng ta.
Trong bài: Viết ở chùa Thiên Trù, Bùi Quang Thanh đã “vịnh sư tử đá”:
Mãnh sư!
Thèm chi chút khói cay
Đem thân hóa đá cửa chùa này
Non cao rừng thẳm đằng kia ấy
Chỉ một nhún: Vèo... lên Chúa ngay!
Nhà thơ dùng với các từ “mãnh sư”, “thèm chi”, “vèo” để vịnh con sư tử bằng đá không lên rừng núi cao rừng thẳm mà... lên chúa. Đằng này thèm chi khói hương mà phải chầu nơi này.
Có lẽ, lớp ngôn ngữ đời sống được Bùi Quang Thanh đặc tả rõ nét nhất là trong tác phẩm: Hầu chuyện Uy Viễn tướng công. Nhan đề nghe qua đúng là ngôn từ văn chương, sách vở. Nhưng cả bài thơ ta thấy ngồn ngộn những từ đặc tả đời sống hàng ngày:
Vuốt ria, Uy Viễn cười khà
Thợ trời khéo quá, tuổi già tình chưa
Dẫu thành người của mai xưa
Rượu nhà đang sẵn, rượu mua chẳng màng
Mày râu đếch ngán phong trần
Chú mày xấu máu đừng mần của chua...
Mắc chi cái thủa ngây thơ
Mo che miệng thế, ngẫm giờ mới hay
Kín lúc tỉnh – hở khi say
Bấc chì gang tấc, mỏng dày tóc tơ...
Qua đó, ta thấy một Uy Viễn với phong cách ngang tàng, ngông nghênh, đầy bụi phong trần qua suy nghĩ, tưởng tượng của Bùi Quang Thanh. Đó cũng phong thái, khí khái của tướng công Uy Viễn khi người còn sống.
3.2.3.2. Lớp ngôn ngữ lấy từ văn học dân gian
Khẳng định vai trò quan trọng của thành phần ngôn ngữ dân tộc trong thơ Bùi Quang Thanh phải kể đến sự có mặt của thành ngữ, ca dao, dân ca – bộ phận ngôn ngữ của văn học dân gian – vào thành phần ngôn ngữ dân tộc. Ý thức về ngôn ngữ dân gian có từ thời Nguyễn Trãi, nhưng việc sử dụng hệ thống ngôn ngữ này là cả một quá trình. Từ thời các nhà thơ trung đại đến các nhà thơ hiện đại, nối tiếp các nhà thơ đương đại hôm nay là cả một quá trình tiếp thu và sáng tạo mạnh mẽ ngôn ngữ văn học dân gian. Từ chỗ là tiếng nói chung của dân tộc, của cộng đồng, là bộ phận của ngôn ngữ thể loại, ngôn ngữ văn học dân gian trở thành bộ phận ngôn ngữ nhà văn, góp phần tạo nên phong cách tác giả.
Lớp ngôn ngữ lấy từ văn học dân gian chiếm số lượng không nhiều nhưng đã để lại dấu ấn đậm nét trong thơ Bùi Quang Thanh. Chẳng hạn ở bài Lời hương khói: Ngọn khói: tóc mây, chân hương: nguồn cội. Kẽo kẹt từ vồng tre ấm bụi tre già măng mọc mà thương nói đến sự mất mát đau thương trong chiến tranh. Bùi Quang Thanh sử dụng thành ngữ “tre già măng mọc” để nói về nỗi đau của người mẹ khi con mình đã hi sinh. Thành ngữ “tre già măng mọc” nói về thế hệ con cháu nối tiếp thế hệ cha ông; nhưng ở đây, nhà thơ dùng thành ngữ này với niềm đau đớn: mẹ vẫn sống mà con không còn nữa. Măng đã gãy trước khi tre già. Hay như thành ngữ “gừng cay muối mặn” trong bài Tự khúc:
Quãng mẹ dìu gừng cay muối mặn
Quãng tự thân đồng đội song hành.
“Gừng cay muối mặn” hay “Muối mặn gừng cay”, ở đây Bùi Quang Thanh nói về cuộc đời của mình như một tiếng thở dài. Phần mẹ dìu với bao nhiêu vất vả, nhọc nhằn của người mẹ với đàn con thơ. Tự thành ngữ đó đã nói lên được hết quãng đời cay đắng của tuổi thơ, sự bươn chải của mẹ hay là nước nhà chưa độc lập? Trong Huyền thoại núi Hồng Bùi Quang Thanh lại dùng thành ngữ “chân cứng đá mềm”, tác giả đảo thành “đá mềm chân cứng” như nhấn mạnh, xoáy sâu hơn vì thế càng khẳng định tình người, tình đất đẹp thiêng liêng:
Đất này: địa linh – nhân kiệt
Đất này: muối mặn gừng cay
Đất này: đá mềm chân cứng
Chim lac chim hồng đừng bay...
Hay trong bài Mai Hắc Đế:
Mẹ ơi bảy nổi ba chìm
Cây đa, bến nước, sân đình mẹ đâu?
Bùi Quang Thanh dùng thành ngữ “ba chìm bảy nổi chín lênh đênh”. Nhà thơ đảo vị trí thành “bảy nổi ba chìm” nhằm nhấn mạnh sự long đong, vất vả, khổ đau của mẹ đã sinh ra Mai Hắc Đế. Hay Sóng – kẻ toa hát những lời mờ ám/ Rằng: Dã tràng xe xát biển Đông (Điệp khúc dã tràng). Bùi Quang Thanh đã dùng thành ngữ “dã tràng xe cát” để nói về những việc làm viển vông, không có thực của một số người.
Ngoài thành ngữ, Bùi Quang Thanh vận dụng ca dao trong bài Viết từ những câu ca: Đói lòng nên mỗi câu ca/ Cũng thơm “rau muống với cà dầm tương” được nhà thơ dùng lại từ bài ca dao: Anh đi anh nhớ quê nhà/ Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương...nói về quê mẹ nghèo đói, quanh năm mưu sinh ngoài đồng chua sông mặn.
Là một người con sống giữa mảnh đất giàu nhạc điệu dân ca nên trong thơ, Bùi Quang Thanh luôn nhắc đến các điệu hò, điệu ví... Từ nền trang Vương nhìn ra bốn phía, phía nào cũng đầy ắp giai điệu thơ – phú – dân ca. Lời kẻ sĩ mịnh như Hoa Tiên, đẹp như Kiều, nghênh ngang như Uy Viễn. Lời phường cấy, phường cày mộc mạc vè dặm, tha thiết giọng đò đưa, phường vải, ca trù (Lay thức. Ở đây cũng nói về quê hương nhưng là sự tự hào về quê mẹ khi Phía nào cũng đầy ắp giai điệu thơ – phú – dân ca. Ông còn tự hào về các nhân vật hay các danh nhân trên mảnh đất quê hương thân yêu của mình.
Nếu nhìn từ gốc độ nguồn gốc của từ ngữ trong thơ của Bùi Quang Thanh như ta đã thấy, lớp từ ngữ hiện rõ nhất là lớp từ ngữ bình dân, giản dị lấy từ cuộc sống. Nhưng nếu nhìn từ ngữ trong thơ ông từ góc độ từ loại, ta thấy từ loại nào, từ dùng của Bùi Quang Thanh cũng rất sắc sảo. Đó là các từ loại: danh từ, tính từ, động từ... Độc đáo và nhiều nhất là từ loại danh từ, sau đó là tính từ. Khảo sát hệ thống từ loại trong thơ Bùi Quang Thanh chúng tôi thấy danh từ được ông sử dụng rất nhiều. Nhìn vào đó, ta cũng thấy được cái mới của tác giả trong việc khái quát, chiếm lĩnh các hiện tượng đời sống của một thời đạn bom mà ông đã trải qua. Ta bắt gặp một loạt danh từ: Hãy yên lòng bên các chị ngủ đi / Đừng sợ tiếng quạ kêu, đừng sợ bom lại nổ / Màu hoa đỏ cành bông trang bên mộ / Nhắc anh không quên được một thời / Ngã ba này – những mất mát – Hà ơi! (Hà ơi). Hay các danh từ: “Lời kẻ sĩ mịnh như Hoa Tiên, đẹp như Kiều, nghênh ngang như Uy Viễn. Lời phường cấy, phường cày mộc mạc vè dặm, tha thiết giọng đò đưa, phường vải, ca trù (Lay thức) làm tăng thêm sức mạnh và lòng tự hào về vẻ đẹp, tài sản của quê hương. Còn đây là các danh từ nói về các con sông: Rằng: Dòng Lam trong xanh bởi đầu nguồn Ngàn Sâu, Ngàn Phố xanh trong. Ôi! Cám ơn nàng đã nhắc ta lẽ sống: Cội nguồn. (Lay thức). Vẻ đẹp của các dòng sông, ý nghĩa của cái tên làm cho Bùi Quang Thanh luôn hướng về cội nguồn của mình. Trong Mẹ chọn năm sinh tôi , nhà thơ nhắc đến tên các con sông còn lại với lòng tự hào: “Sông Hội, sông Cày, sông Phủ, sông La...” hay tên các địa danh ở Khe Sanh, Quảng Trị: Nghe quá khứ cha anh trong gió ngàn rong ruổi/ Từ Đồng Tri, Cổ Nhối, Làng Vây (Về Khe Sanh). Là một nhà thơ, cũng là một nhà báo, nhiếp ảnh nên ông đi nhiều, hiểu nhiều; bởi vậy các địa danh và văn hóa vùng, miền được Bùi Quang Thanh hiểu rất rõ. Nhà thơ làm việc và sinh sống một thời gian khá dài ở Đà Nẵng nên việc ông dành tình yêu chứa chan cho Đà Nẵng là điều dễ hiểu:
Về đây em, nơi bãi Bụt nắng chiều
Về đây em, Bà Nà đêm sương lạnh
Về đây em, Hải Vân mây trắng đỉnh
Đêm sông Hàn lóng lánh trăng lên...
Quá khứ anh hùng, quá khứ không thể nào quên
Đà Nẵng chúng mình một thời đánh Mĩ
Đây mẹ Nhu – mẹ những người dũng sĩ
Đây Ngũ Hành bao xác giặc vùi tan.
(Thành phố của tương lai)
Sau từ loại danh từ là tính từ, Bùi Quang Thanh dùng nhiều tính từ chỉ tính chất và màu sắc: xanh, đỏ, tím. Nhà thơ nhớ về cái tết đã qua khi đang đi hành quân, một cái tết đầy màu sắc:
Trên quê hương xa vợi
Bưởi cũng nở trắng cành
Bên nồi bánh chưng xanh
Mẹ ta đang dõi bóng
Vài cành hoa bưởi trắng
Mấy nhành đào đỏ tươi...
(Cành hoa bưởi)
Hay trong bài Nhớ Hải Hà, tác giả nhớ về bạn đã khuất của mình với tình cảm buồn chơi vơi bằng một loạt động từ và tính từ:
Người ngấm rượu, thơ say men
Ghét, yêu, hay, dở, khen, chê, khóc, cười...
Bài nào trong thơ Bùi Quang Thanh cũng xuất hiện từ chỉ màu, ông lấy màu để tả cảnh, lấy màu để biểu hiện tâm trạng, lấy màu để tượng trưng. Trong Lời hương khói có: lá vàng, quả thị vàng, lộc xuân xanh, xanh một đốm sao trời, bầu vú xanh gầy, chưa kể đến những hình ảnh vốn đã mang màu sắc như: sao năm cánh, tơ tằm, quả dâu,, khói bếp, trời mây, nắng, sương, vườn thu, mái tóc... Bùi Quang Thanh lấy từ chỉ màu sắc để ẩn ý nói về sự lỗi nhịp trong tình yêu hay đó chính là sự chạy theo những điều không có thật:
Em yêu hoa đỏ mà anh tặng em hoa tím
Hoa tím ơi lạc bước đâu rồi?
Cái màu đỏ có làm em mỏi mắt
Khi dòng đời bao màu tím buông trôi.
(Hoa tím)
Đây là những từ Bùi Quang Thanh chỉ tính chất khi ông nói về trầu cau: bạc, cay, đắng, chát: Ai cho con tằm ăn lá dâu thay lá sắn để kén thành tơ, tơ thành lụa, mớ ba mớ bảy dập dìu? Vôi bạc, trầu cay, đắng chát hạt cau, ai ghép chúng nên đôi nên lứa? (Dáng mẹ). Rồi: cao, sâu, giàu, ngọt: Núi không cao, biển không sâu/ Người chưa đông, đất chưa giàu/ Độc đạo một đường Nam – Bắc/ Đông – Tây nối tận năm châu/ Nắng nỏ trái đời thêm ngọt... Tác giả dành để nói về mảnh đất núi Hồng sông La còn nhiều khó khăn vất vả.
Dù xét từ loại danh từ hay tính từ trong thơ Bùi Quang Thanh, chúng ta không xét một cách độc lập mà nhìn nó trong một chỉnh thể của lời thơ, câu thơ và cấu trúc bài thơ. Nhưng chỉ mới nhìn ở phương diện thống kê miêu tả trên, cũng đã thấy được sự sắc sảo, tinh nhạy trong cảm quan hiện thực của nhà thơ. Ta sẽ càng thấy rõ ý nghĩa nghệ thuật của nó hơn trong quan hệ của ngữ đoạn, cú pháp thơ, nghệ thuật tổ chức lời thơ của tác giả.
3.2.3.3. Các biện pháp tu từ tạo nghĩa trong thơ Bùi Quang Thanh
Vốn từ ngữ trong thơ Bùi Quang Thanh chúng ta thấy rất đa dạng, linh hoạt trong cách dùng. Ta có thể thấy ông sử dụng nhiều biện pháp tu từ khác nhau như nhân hóa, so sánh, từ láy, ẩn dụ...
Bùi Quang Thanh là một người có “tính hồn nhiên thi sĩ” (chữ dùng của nhà văn Trần Đắc Túc) nên ông có những đứa con về đề tài thiếu nhi mà chúng ta đã nói ở trên. Với giọng thơ hóm hỉnh và tài sử dụng nghệ thuật nhân hóa nên thơ thiếu nhi của ông rất được các em thiếu nhi Hà Tĩnh yêu thích.
Nói về vẻ đẹp các loài hoa, chẳng hạn Hoa Mười Giờ, nhà thơ dùng từ “gã”, “ngủ”, “tỉnh”: Chỉ một gã duy nhất/ Ngủ hăm hai tiếng liền/ Quên cả ngày, cả đêm/ Gã Mười Giờ mới tỉnh (Các loài hoa). Trong Nắng ơi: Chợt cô nàng Mây trắng/ Tay áo che mặt trời/ Đôi Chuồn Kim ngơ ngác/ Nắng đâu rồi? Nắng ơi!. Hay hình ảnh mặt trời được nhà thơ cho trở thành lão trời thấy bà em mặc áo tơi nên cũng thèm có một cái như vậy, và lão trời đã làm thật: Trời về vơ nắm sợi mưa/ Sai năm cậu Gió đi lùa lũ Mây/ Mây xanh trắng, Mây mỏng dày/ Lão khâu, lão buộc cả ngày mới xong/ Làng ơi ra ngõ mà trông/ Lão Trời lụng thụng chơi rông ngân Hà (Lão trời cũng mặc áo tơi).
Ở thơ thiếu nhi, hầu hết bài nào Bùi Quang Thanh cũng dùng nghệ thuật nhân hóa: Từ hoa đến củ, Học chữ, Đuôi cỏ, Chuyện về mười ngón tay, Ngài ốc sên, Kính lão, Trống tía... Không chỉ thơ thiếu nhi mà thơ người lớn Bùi Quang Thanh cũng sử dụng nhân hóa khá nhiều: Sóng – kẻ điêu toa hát những lời mờ ám (Điệp khúc dã tràng). Nhà thơ vừa sử dụng nhân hóa, vừa ẩn dụ chỉ kẻ xu nịnh, thời thế để làm những việc có lợi cho mình, không cần nghĩ đến sai trái, đến đạo đức. Hay Lời yêu níu nghẽn phím đàn/ Bao nhiêu rặng liễu chịu tang một người (Một đời yêu, một đời thơ). Nói về nỗi nhớ của mọi người dành cho nhà thơ Xuân Diệu nhân kỉ niệm 10 năm ngày mất của ông.
Trong Những đứa con của gió Bùi Quang Thanh lại ngọt ngào, tình cảm khi đưa các “đứa con” của thiên nhiên sống hòa đồng, thân thiện với nhau: Giò phong lan bá cổ chàng săng lẻ/ Buông nhành hoa đùa giỡn với gió trời hay Những cánh hoa ngượng ngập/ tựa vào bờ vai nhau ( Hoa quỳnh).
So sánh được Bùi Quang Thanh sử dụng nhiều trong thơ. Đây là hình thức làm tăng thêm giá trị của thơ: Câu nói khẽ mà như dao chém đá/ Tôi nghe từ người chủ tịch Vĩnh Linh (Tản mạn Vĩnh Linh). So sánh câu nói rất khẽ của chủ tịch ở Vĩnh Linh về người mẹ ở đây cả cuộc đời bàn chân đã nhuốm trong mưa bom bão đạn. Câu nói ấy rất khẽ nhưng nó như nhát nhát dao chém xuống đá. Thấm thía vô cùng. Đó chính là tình thương yêu của mọi người dành cho mẹ. Người mẹ suốt đời phải chịu đau đớn , mất mát của chiến tranh. Trong Lời hương khói, Bùi Quang Thanh so sánh những người con liệt sĩ như khói mây bay giữa bầu trời tổ quốc, mãi sống trong lòng mẹ, trong mỗi chúng ta và toàn dân tộc: Con là khói mây bay giữa bầu trời Tổ quốc, mãi không cùng trong lòng mẹ bao la (Lời hương khói). Trong Với người tiễn bạn về quê, Bùi Quang Thanh dùng hình ảnh so sánh:
Mẹ quê xanh hết dâu triền bãi
Con là tằm điếc chẳng buông tơ.
Người con ở đây được Bùi Quang Thanh ví như con tằm điếc. Đây là một sự tự trào, hay nói cách khác, nhà thơ tự xem mình là “con tằm điếc”. Quê hương đã nuôi nấng, nâng niu, che chở tuổi thơ cho ông nhưng lớn lên ông cảm thấy mình chưa làm được gì cho quê hương của mình. Hình ảnh so sánh độc đáo của nhà thơ càng làm nổi bật tâm tình của ông khi sống xa quê, lòng đau đáu nhớ về nơi chôn rau cắt rốn của mình.
Ở bài thơ Những căn nhà của mẹ, Bùi Quang Thanh lấy hình ảnh so sánh mẹ với cây tre: Các anh con đi mãi không về/ Mẹ là cây tre chẳng thể chờ măng mọc. Hình ảnh so sánh được nhà thơ lấy từ thành ngữ Tre già măng mọc nhưng ở đây tre già nhưng măng không mọc. Lí do chúng ta đều biết. Đó là các anh con đi mãi không về. Các con của mẹ ra đi để đất nước có tự do, có hòa bình. Mẹ già ở nhà không thể chờ đợi con của mình. Hình ảnh so sánh thật buồn. Bài Lời ru đồng đội cũng vậy. Bùi Quang Thanh so sánh: Rừng sâu dây níu bốn bề/ Nắng như đôi mắt đỏ kè rưng rưng. Nhà thơ tìm về rừng xanh, nơi trước đây đồng đội của mình đã hi sinh. Nỗi xúc động của ông khi quay lại chiến trường xưa. Nhìn thấy những nấm mồ cô đơn, lạnh lẽo, ông không cầm lòng được. Hình ảnh nắng được so sánh với đôi mắt đỏ kè của mình ta thấy được ông xúc động, đau khổ, thương đồng đội đến nhường nào. Nắng cháy đang thiêu đốt nhà thơ hay là nỗi xúc động, niềm thương nhớ hiện lên trong đôi mắt đỏ lệ của ông? Hay chính là dáng bản đồ đất nước mà Bùi Quang Thanh xem như cái tổ và ta hãy xem ông so sánh cái tổ ấy: Chiếc tổ như dáng rồng bay lượn, như dáng hình con sóng, chênh vênh bên nước, bên non, chênh vênh nối trời với đất (Nơi ấp trứng). Bùi Quang Thanh tự hào về dáng hình đất nước. Nó tựa rồng bay, tựa con sóng, chênh vênh nối trời với đất. Đó là lòng yêu quê hương, niềm tự hào vì mình được sinh ra trên đất nước xinh đẹp này.
Bất cứ một nhà thơ nào bao giờ cũng quan tâm đến từ láy và nghệ thuật từ láy vì đây là yếu tố vô cùng quan trọng của nghệ thuật thi ca. Láy là phương thức đặc sắc của tiếng Việt. Mỗi từ láy chứa đựng trong mình một sự thể hiện rất tinh tế và sinh động về sự cảm thụ chủ quan, về cách đánh giá và thái độ của người nói trước sự vật và hiện tượng của đời sống xã hội. Từ láy là phương diện tạo hình đắc lực của văn học nghệ thuật, đặc biệt là thơ ca. Bùi Quang Thanh sử dụng từ láy rất linh hoạt:
Mảnh trăng cong – sợi tơ vàng
Treo chung chiêng giữa vô vàn khen, chê
Ai hờ hững, ai đắm mê
Tự ru mình giữa bộn bề đa đoan
(Với thơ)
Các từ láy: chung chiêng, hờ hững, đa đoan, bộn bề được nhà thơ sử dụng tạo cho một bài thơ ngắn nhưng đầy cảm xúc, nỗi lòng hay quan điểm của nhà thơ về “nghề thơ” của ông. Đây là vẻ đẹp của một vùng quê miền biển:
Đường thôn long lanh vẩy cá
Nền trời loáng thoáng sao xa
Những con sóng về nghỉ tối
Nằm xoài trên sóng đong đưa.
(Chiều cửa Nhượng)
Ta thấy cảnh vật với đường, trời, cát đều lung linh, huyền ảo. Vẻ đẹp của biển, của con đường làng, của con sóng hiền hòa nằm nghỉ xoài trên cát. Còn trong Lời hương khói, ở khúc 4, khúc cuối của bài thơ văn xuôi, Bùi Quang Thanh đưa ra hai từ láy tượng hình gợi cho bao độc giả cảm giác xót xa, đau đớn: Nơi mẹ tiễn con đi – nơi mẹ ngóng con về - nơi đồng vọng. Sừng sững tượng đài chiến thắng – đìu hiu dáng Mẹ lưng còng. Đây là sự đối lập giữa chiến thắng và mất mát khổ đau. Để có được sừng sững tượng đài chiến thắng thì chúng ta phải đìu hiu dáng mẹ lưng còng. Đọc câu thơ với hai vế đối lập ấy ta có thể nhận ra sự mất mát quá lớn mới đổi được ánh hào quang của chiến thắng trong cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta.
Ở Lay thức, Bùi Quang Thanh dùng các từ láy: hờ hững, nhỏ nhoi, xôn xao để nói về bản thân: Tôi là tôi thôi: lu mờ, hờ hững, nhỏ nhoi, nếu sôi động chút nào – có chăng – cũng vì miếng ăm tấm mặc, cũng vì gió lay mưa thức trong xôn xao chợ búa kiếp người... Còn đây là một loạt từ láy đầy ấn tượng, tạo cảm giác huyền ảo trong đêm mưa rơi tí tách:
Tí tách giọt mưa cứ rơi
Vời vợi ánh đèn lấp loáng
Ô cửa nhà ai hương bay thoang thoảng
Ngập ngừng ai kéo tấm rèm thưa
Bụi trúc ngà xõa tóc đong đưa
Ru bao kẻ vô tư vào cõi mộng.
(Đêm mưa Hà Nội)
Trong mảng thơ viết cho thiếu nhi, Bùi Quang Thanh sử dụng từ láy rất nhiều: Những bông mặt trời bé xíu
Lung linh ngời trong ban mai
Gió đưa lời đàn lời sáo
Xôn xao cánh đồng giêng hai.
(Từ hoa đến củ)
Hay : Nắng trưa gập ghềnh sỏi đá / vó mẹ ngập ngừng run run. (Giúp mẹ), Vện con vào ra thấp thỏm/ Bé bươn bả kiếm khắp vườn (Trống Tía), nhất là bài: Đêm trăng nghe tớ rì rào / Đủ làm nhấp nhánh ánh sao trên trời (Lời tàu cau).Tạo cho giọng thơ mượt mà, nhịp thơ uyển chuyển. Còn ở bài Chổi lông nằm ở ngăn kéo, Bùi Quang Thanh nêu đặc điểm của từng loại chổi với những sắc màu khác nhau tạo cho bài thơ sự sinh động: Chị Chổi Đót mảnh mai / Quét nền nhà sân gạch / Bà chổi tre lếch thếch / Quét sạch ngõ, sạch vườn (Chổi lông nằm ngăn kéo)...
Có thể nói từ láy mà Bùi Quang Thanh dùng rất đa dạng: Có cả từ láy tượng thanh và từ láy tượng hình. Ông vừa quan sát, cảm nhận bằng thị giác vừa cảm nhận bằng thính giác nhạy cảm của mình. Qua đó, thơ của Bùi Quang Thanh là thơ của thị giác, thính giác, thơ của nhịp điệu cuộc sống con người. Thơ ông sống động, biểu cảm một phần cũng nhờ vốn từ láy phong phú và khả năng quan sát linh hoạt của nhà thơ.
3.2.4. Nghệ thuật tổ chức câu thơ, bài thơ, tập thơ
3.2.4.1. Nghệ thuật tổ chức câu thơ
Không chỉ về mặt chức năng của thể loại mà cấu trúc của thể loại mà cấu trúc của thể loại Bùi Quang Thanh cũng tỏ ra tự nhiên, từ chọn chữ, gieo vần đến kiến tạo câu thơ, bài thơ, tập thơ. Việc chọn chữ chúng tôi đã trình bày ở mục trên. Ở đây, chúng tôi sẽ trình bày về nghệ thuật tổ chức câu thơ ,bài thơ, tập, thơ mà sáng tác của Bùi Quang Thanh đưa lại cho người đọc ở bất cứ thể loại nào.
Ở kiểu câu thơ thật phong phú, đa dạng, có kiểu câu trần thuật, mô tả Khi lưỡi gạt chiếc máy ủi cà vào vỏ quả bom nổ chậm/ Tiếng rít lên như cánh cửa tử thần / Những sợi tóc sau gáy anh bộ đội mồ hôi đứng dậy / Chân ga chùng, tay số bỗng phân vân (Đối mặt với tử thần). Nhà thơ mô tả công việc đầy nguy hiểm của những thanh niên xung phong làm nhiệm vụ cho xe thông tuyến. Ở bài: Qua đèo Ngang, nhà thơ nhìn thấy cảnh và người ở đèo mà gợi nhớ đến cảnh xưa Bà Huyện dừng chân tại đây: Nhìn xuống đèo Ngang vẫn cảnh chiều / Xóm làng rải rác mái tranh xiêu / Biển không chài lưới, không thuyền bến / Vẫn dáng lom khom mấy chú tiều.
Ngoài câu trần thuật, mô tả còn có câu cảm thán: Dải đất này đẹp quá!/ Cả bầy chim đông thanh:/ Dừng đây thôi. Tuyệt! Tuyệt!”. Nhà thơ dùng câu cảm thán để thể hiện sự ngạc nhiên đến ngỡ ngàng của đoàn chim phượng hoàng bay về đỉnh núi Hồng Lam trước cảnh thiên nhiên tươi đẹp. Còn đây là câu cảm thán mà Bùi Quang Thanh thể hiện thay cho nỗi lòng của mình khi ông không bảo vệ, che chở được cho người phụ nữ mà ông yêu dấu: Anh như con sóng gầm gào tung bờm trên mặt nước / không che chắn nổi bốn bề con cá nhỏ nhoi ơi!. Đặc biệt, câu cảm thán dùng để thể hiện cảm xúc vui buồn hay tiếc nuối, xót xa: Em gái Lào ơi!, Sương ơi!, Đồng bào ơi, Lạy trời!, Ôi Mị Nương, Mà nào cháy được lạnh lùng ơi, Lớp lòe. Mặt sông bom! Bom!, Hoa quỳnh! Ôi hoa quỳnh!, Mẹ ơi!... Câu nghi vấn được nhà thơ sử dụng rất nhiều (đây là loại câu thơ trên văn bản có dấu hỏi kèm theo): Thế nào có? Thế nào không?, Sao con là ráng mây hun hút cuối tầm, là ngọn buốt thổi phơ thêm mái tóc?, Vì sao ông Đùng khổng lồ / Chẳng xây đủ trăm ngọn núi?/ Vì sao đàn chim huyền thoại / Không là chín mươi chín con?, Đàn chim Phượng vô tình vỗ cánh hay tôi vô tình để một mắt xích còn thất lạc đâu đây?, Muối thay cơm sao đặng/ Ráng mây nào từ lửa khói bay lên? Đứa khôn bao giờ cây?... Đâu trời cao, đâu đất dày/ Mà sao tạo hóa buộc vào với tôi? Phía tôi, hay từ phía em?, Những đứa trẻ lớn trong nhung lụa / Đòi bắn rụng mặt trăng?/ Nếu quy luật là con tạo xoay vần/ Chẳng lẽ lại bắt đầu/ Những đứa trẻ sinh trong hang đá? Riêng ở bài Dáng mẹ, một loạt câu nghi vấn được sử dụng khi nhà thơ viết về mẹ Âu Cơ, muốn biết quá khứ của cha ông thời dựng nước: Ai trong số những người con của mẹ trở thành thần Khoai, thần Lúa? Ai đóng cối xay, ai ghép ván lướt thuyền? Mảnh buồm đầu tiên căng gió ra khơi làm bằng vỏ cây hay bằng phên tre nứa?, Cô gái nào là dâu đầu chi cả biết kết nón quai thao, biết đan áo tơi tằm? Điệu hát đầu tiên ru trẻ dưới đồng bằng có na ná câu then, câu lượn?, Hạnh phúc? Tình yêu? Tà dâm? Sức mạnh?. Đặc biệt mà trong một dòng thơ, Bùi Quang Thanh sử dụng cùng lúc hai loại câu, đó là câu cảm thán và câu nghi vấn: Thần Uma! Đích thực nàng là ai? / Em là quả thị? Em là gió mây!, Anh ấy tìm ai? Anh ấy ơi!, Lang thang làm gì? Tôi ơi!, Mấy trăm năm chẳng chịu già? Thưa ông!. Ngoài các loại câu trên, Bùi Quang Thanh còn dùng câu đặc biệt tạo cho sự truyền tải tư tưởng tình cảm của mình tăng lên rất nhiều: Kìa em! Kìa em! Kìa em...pháo hoa., Nín đi! Đừng khóc. Kìa em, Ơi ngọn gió. Người ơi! Ngọn gió., Từng quai. Từng quai. Từng quai., Một. Hai. Ba. Bốn. Năm. Sáu . Bảy, Trưng!...Trưng!...Lửa rực. Đêm tàn, Tít mù. Quay. Quay. Quay. Quay.
3.2.4.2. Nghệ thuật tổ chức bài thơ
Về nghệ thuật tổ chức bài thơ, Bùi Quang Thanh có nhiều sáng tạo. Dù đó là thơ truyền thống hay thơ tự do, ông cũng đã thành công trong cách tổ chức bài thơ của mình.
Ở thể thơ tự do, Bùi Quang Thanh đã thành công trong việc tổ chức bài thơ với nhiều dụng ý. Bài thơ văn xuôi Lời hương khói được nhà thơ kết cấu bốn khúc. Bốn khúc ấy là bốn day dứt của người liệt sĩ khi nhớ về mẹ, về quê hương. Mở đầu khúc một, Bùi Quang Thanh để cho liệt sĩ nhớ về mẹ, về quê hương, về sự mất mát với hình ảnh khói bếp mẹ nhen, nón lá áo tơi, vòi hái, lưỡi liềm. Hình ảnh mẹ và quê hương luôn níu giữ trong hồn liệt sĩ, hồn hương khói. Khúc hai, hồn liệt sĩ nhớ về mẹ với đôi vai gầy và sự vất vả nuôi con lớn mà không dám chờ ngày tằm nhả tơ thành lụa. Khúc ba là khúc xúc động nhất khi người liệt sĩ bị thương nằm nhớ mẹ, nhớ đồng đội của mình. Đó là sự tương phản giữa rạng ngời và niềm đau, giữa sự hi sinh của bao đồng chí, đồng đội và hào quang chiến thắng. Khúc cuối là khúc đau xót nhất. Nghèn nghẽn tiếng “ầu ơ”..., cánh võng không bàn tay hụt hẫng. Cuối vườn thu bay từng sợi nắng, rứt gì lòng mẹ?. Một câu hỏi khiến bao thế hệ phải đau đớn, là sự đối lập giữa sừng sững tượng đài chiến thắng, đìu hiu dáng mẹ lưng còng. Ở bài Tiếng đồng, với năm khổ, mỗi khổ 6 tiếng. Bốn khổ đầu, Bùi Quang Thanh cấu trúc mỗi khổ bốn dòng. Riêng khổ cuối chỉ có một câu duy nhất: Lúa đỏ đuôi rồi. Mẹ ơi!. Đây là một bài thơ nói về sự vất vả của mẹ với công việc đồng áng hàng ngày. Lúa đỏ đuôi là bắt đầu chín, đã đến ngày thu hoạch rồi. Câu cuối như lời khẳng định khi nhà thơ nhắc lại câu Lúa đỏ đuôi rồi. và gọi Mẹ ơi! với dấu chấm than như tiếng gọi tha thiết, yêu thương, kính trọng người mẹ một đời nhọc nhằn với đồng ruộng.
Ở bài Trưa hè ở bể ngang Bài thơ với bốn khổ, ba khổ đầu Bùi Quang Thanh sử dụng nhiều tiếng với câu tám, câu bảy để nói về các dự án vẫn luôn bỏ ngỏ, trong lúc đó người dân không có đất đai, công việc để cày cấy, để làm việc mưu sinh. Khổ cuối cũng bốn câu nhưng được nhà thơ kế cấu khác ba khổ trên:
Con sóng chìm hát ru con sóng nổi
Ngày mai
Ngày mai
Ngày mai...
Những công trình dang dở, những dự án đang đi vào quên lãng. Khổ cuối, Bùi Quang Thanh muốn nói đến một tương lai mờ mịt, một sự “hứa” của “con sóng chìm” là ngày mai, nhưng tác giả điệp lại thành ba câu, ba dòng thể hiện sự kéo dài, hun hút, sự chờ đợi mỏi mòn của người dân và sự hứa suông của ông chủ công trình, của “những con sóng chìm”. Chúng luôn hát: “Ngày mai”, nhưng không biết ngày mai là khi nào.
Trong bài Em bỏ bùa tôi, có những câu thơ dài, ngắn khác nhau:
Em bỏ bùa tôiBằng khói hương làm từ cọng lùng
Bằng những địa danh:
Thác Khó
Thác Nhia (rơi từ dốc đứng)
Thác Đũa – nơi dòng sông đổ vào miệng đá
đầu ngựa dựng
Con sông Hiếu tắm ủ tuổi thơ em.
Hoặc:
Em bỏ bùa tôi
Tôi chẳng sợ ăn nhầm ngải lú
Lạy trời!
Đừng bắt tôi làm con ma dữ
Ám vào đời em.
Bùi Quang Thanh viết theo cảm xúc, theo nhịp tim thổn thức, vẫy gọi nên tùy theo cảm xúc để thể hiện câu thơ dài ngắn khác nhau, không theo quy luật. Đó cũng chính là cái chung của thơ tự do hiện đại, là hơi thở, nhịp sống gấp gáp của xã hội bây giờ. Các bài thơ tự do, khổ kết bao giờ cũng tạo nên sự bất ngờ, cả về nội dung lẫn hình thức. (Đò đêm, Thơ vui nhân họp báo về dân số, Cơm chay ở chùa Hương, Đá ngồi chờ đá, Gửi Hạnh Thuyền, Đi tàu cùng người đẹp, Rượu Đười ươi, Nhớ Hải Hà...) đều đem đến sự kết bất ngờ, gợi cho người đọc nhiều suy ngẫm, day dứt.
3.2.4.3. Nghệ thuật tổ chức tập thơ
Bùi Quang Thanh có đến năm tập thơ, nhưng theo chúng tôi, tập Mật ong vàng lũng núi là tập thơ được tuyển chọn từ các tập thơ trước và nhiều sáng tác mới mà ông đã đem vào. Ở Mật ong vàng lũng núi có cách sắp xếp theo một trình tự hợp lí, có chủ đích. Tập thơ dày 278 trang, chia làm năm phần: Phần một: Dáng mẹ. Những bài thơ trong phần này ông tập trung dành tình cảm về mẹ, về các thanh niên xung phong, về các anh hùng liệt sĩ, những đồng chí, đồng đội thân yêu của mình. Phần hai: Đò dọc sông đêm (Trích “Trường ca”) được Bùi Quang Thanh Kính dâng Mẹ và Quê. Ở Đò dọc sông đêm, nhà thơ đặt sáu mục lớn: Một: Huyền thoại núi Hồng, hai: Nơi ấp trứng, ba: Lay thức, bốn: Viết những câu ca, năm: Mai Hắc Đế và sáu là Mẹ chọn năm sinh tôi. Ở phần hai, Bùi Quang Thanh tập trung đi vào nói về vẻ đẹp của quê hương của mình với dòng sông La, núi Hồng Lĩnh, mẹ , cảnh sắc và tình người dạt dào trong con người ông. Phần ba: Một cánh xuân, đây là phần nhà thơ biểu đạt về tình yêu đôi lứa, tình yêu với thiên nhiên, với các địa danh ở quê hương Hà Tĩnh và cảnh đẹp khắp miền đất nước chúng ta. Tình yêu ông dành cho con người và cảnh đẹp thiên nhiên thật lớn. Phần bốn: Đêm sông Mây, Bùi Quang Thanh sáng tác những bài thơ này từ khoảng 1971 – 1975. Thời kì này ông đang là một người lính đi chiến đấu vì Tổ quốc. Tuổi trẻ, lòng nhiệt huyết, máu nóng của một thời in đậm trong phần này. (Đêm sông Mây, cành hoa bưởi, Tình mơ, Nỗi nhớ này cháu phải viết thành thơ). Đặc biệt, phần cuối là phần dành cho thơ thiếu nhi với 28 bài được chọn lọc, 28 giọng điệu vui vẻ, sảng khoái, hài hước, mến yêu khác nhau. 28 bài thơ với đa sắc màu trong đó, nào là chú nghé ăn “đuôi cỏ”, nào là chú Gà Choai đi đá nhau nên về muộn, nào là Mây trắng, Chuồn kim, nào là Gà Trống, Dê con học chữ, rồi chuyện về mười ngón tay, lão trời cũng đòi mặc áo tơi...tất cả đều nhí nhảnh, vui tươi, dễ thương cả. Đó là cái duyên may mắn trong hồn thơ nghệ sĩ mà ít nhà thơ có được.
KẾT LUẬN
1. Thơ Bùi Quang Thanh đa dạng, sinh động, được tổ chức công phu, hồn nhiên, chân thực, mang ý nghĩa xã hội – thẩm mỹ cao. Ở đây ta vừa thấy hình bóng của thế giới khách thể, vừa thấy hình bóng một thế giới chủ thể, ta thấy rõ đặc sắc của thành tố cấu trúc cũng như đặc sắc mang tính thống nhất chỉnh thể của đặc điểm nghệ thuật thơ Bùi Quang Thanh.
2. Thơ Bùi Quang Thanh là một trường hợp nổi trội trong bối cảnh thơ Hà Tĩnh và thơ xứ Nghệ đương đại. Thời nào cũng vậy, con người Hà Tĩnh đã vượt qua biết bao khó khăn thử thách để đến với thành công. Bùi Quang Thanh cũng như các nhà thơ, nhà văn Hà Tĩnh, các nhà văn, nhà thơ xứ Nghệ đều thể hiện tình yêu quê hương, lòng tự hào vì mình được sinh ra trên mảnh đất “địa linh nhân kiệt” này. Họ đã sống hết mình, yêu hết mình đối với con người và thiên nhiên nơi mảnh đất đầy chất mặn mòi của biển, có núi Hồng, sông Lam... Tất cả đều được các nhà thơ thể hiện bằng những vần thơ đầy xúc động và mượt mà.
3. Cảm hứng sáng tạo và hệ thống hình tượng trong thơ Bùi Quang Thanh, đa dạng và phong phú (về quê hương đất nước, về văn hóa - lịch sử, về chiến tranh và người lính cách mạng, về Tình yêu và, những dăng mắc , duyên nợ tình đời, tình người)…Có thể nói ở mạch cảm hứng nào Bùi Quang Thanh cũng thể hiện đầy sáng tạo. Cảm hứng về quê hương là mạch nguồn không bao giờ ngừng chảy. Quê hương trong thơ Bùi Quang Thanh luôn có hình ảnh của dòng sông, cánh cò, núi Hồng, là nỗi đau vì quê hương còn nhiều khó khăn vất vả của những con người sống trong thiên nhiên khắc nghiệt, “đất cằn sỏi đá”. Cảm hứng văn hóa - lịch sử là lòng tự hào về mảnh đất đầy ắp giai điệu thơ phú, dân ca, những câu hát ví, phường vải, ca trù chảy theo năm tháng không bao giờ vơi cạn. Đó còn là những di tích lịch sử mà cha ông ta để lại. Một quá khứ đẹp, huy hoàng nhưng cũng không tránh khỏi sai lầm của những người đi trước. Trong cảm hứng này, tác giả còn bộc lộ sự day dứt của mình vì lãng quên quá khứ, lãng quên những điều tốt đẹp mà cha ông ta đã gây dựng nên... Cảm hứng về chiến tranh và người lính cách mạng được Bùi Quang Thanh bộc lộ rõ nét với sự bày tỏ về nỗi đau của người mẹ, của bà, của vợ trước sự mất mát trong chiến tranh. Mạch thơ về Tình yêu và những dăng mắc,duyên nợ tình đời, tình người... trong thơ Bùi Quang Thanh cũng thực sự có sức hấp dẫn, quyến rũ… Trên cơ sở của những nguồn cảm hứng mãnh liệt ấy, Bùi Quang Thanh đã sáng tạo nên một hệ thống hình tượng phong phú và thật đẹp, từ hình tượng cái tôi trữ tình, hình tượng mẹ, đến hình tượng quê hương xứ sở…
4. Bùi Quang Thanh đã có những nỗ lực lớn trong tìm tòi phương thức thể hiện, từ lựa chọn bút pháp, thể loại thơ đến nghệ thuật tổ chức giọng điệu và ngôn từ thơ. Thơ Bùi Quang Thanh đa dạng trong bút pháp, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các bút pháp; giọng điệu lắm cung bậc, sắc thái; nghệ thuật tổ chức ngôn từ thơ năng động, thoải mái, không ràng buộc khuôn mẫu dù bất kì ở thể loại nào. Về cơ bản, Bùi Quang Thanh vẫn đi trên con đường của truyền thống thơ Việt, nhưng có những nét cách tân đáng trân trọng.
5. Với đề tài này, chúng tôi muốn đưa đến một cái nhìn đầu tiên, tương đối hệ thống về thơ Bùi Quang Thanh. Còn nhiều điều ở thơ Bùi Quang Thanh (cả thành công cũng như hạn chế và những giới hạn mà Bùi Quang Thanh cần vượt qua…), người viết chưa có điều kiện đi sâu, hy vọng một dịp khác… Những gì đã làm được ở luận văn này, hy vọng ít nhiều sẽ giúp ích cho việc tìm hiểu, nghiên cứu thơ Bùi Quang Thanh cũng như thơ Hà Tĩnh, thơ xứ Nghệ nói riêng, thơ Việt Nam đương đại nói chung; đồng thời, giới thiệu với người đọc một gương mặt thơ khả ái, được nhiều người mến mộ…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Lê Văn An, Hình ảnh người mẹ - phụ nữ trong thơ ca chống Mỹ, htt://thainguyen.edu.vn.
[2]. Nghiên cứu lý luận phê bình văn học nghệ thuật Nghệ An (1997), Hội văn học nghệ thuật Nghệ An.
[3]. Phạm Quang Ái (2011), Ca cung đàn người xưa, www.buiquangthanh.com.
[4]. Hoàng Cát, Nhà thơ Bùi Quang Thanh,http://vanhocnghethuathatinh.org.vn.
[5]. Sỹ Châu (2011), Ký ức, thơ, Nxb thanh niên, Hà Nội.
[6]. Huy Cận, Võ Liêm Sơn, Lê Thước... (2000), Thơ Hà Tĩnh thế kỉ XX, Nxb Hội văn học nghệ thuật Hà Tĩnh.
[8]. Văn Chinh (2010), Mùa màng văn học mấy năm qua, Tập phê bình - Tiểu luận, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
[9]. Gia Dũng – Nguyễn Hồng Oanh (2010), Đường về xứ Nghệ, Nxb Văn học, Hà Nội.
[10]. Huỳnh Diệu, Hình tượng người lính qua thơ sau chiến tranh, http://vanhaiphong.com.
[11]. Phong Điệp, Đề tài chiến tranh và người lính trong trường ca thời chống Mỹ, http://phongdiep.net.
[12]. Văn Giá (2011), Xuôi cùng đò dọc sông đêm, www.buiquangthanh.com.
[13]. Nhiều tác giả (1969), Thơ Hà Tĩnh 1965 – 1968, Hội sáng tác văn nghệ Hà Tĩnh
[14]. Nhiều tác giả (2000), Văn Hà Tĩnh thế kỉ XX, Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật, Sở văn hóa thông tin Hà Tĩnh.
[15]. Nhiều tác giả (2000), Thơ Hà Tĩnh thế kỉ XX, Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật, Sở văn hóa thông tin Hà Tĩnh.
[16]. Nhiều tác giả (2004), Về Cẩm Xuyên, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
[17]. Nhiều tác giả (2004), Hội viên và tác phẩm, Hội văn học nghệ thuật Hà Tĩnh.
[18]. Nhiều tác giả (2010), Văn thơ Hà Tĩnh (2005 - 2010), Hội liên hiệp VHNT Hà Tĩnh.
[19]. Nhiều tác giả (2012), Dưới chân núi Hồng, Tập 1, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
[20]. Nhiều tác giả (2012), Sắc xuân Hồng Lĩnh, Nxb Nghệ An.
[21]. Nhiều tác giả (2012), Dưới chân núi Hồng, tập 2, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
[22]. Xuân Hoài (2000), Thơ Xuân Hoài, Sở văn hóa thông tin và hội liên hiệp văn học nghệ thuật Hà Tĩnh.
[23]. Xuân Hoài (2007), Người trong cõi nhớ, Nxb Nghệ An.
[24]. Võ Hồng Huy (2010), Non nước Hồng Lam, Hội văn học nghệ thuật Hà Tĩnh.
[25]. Tạp chí Hồng Lĩnh (2009), Hội văn học nghệ thuật Hà Tĩnh.
[26]. Nguyễn Thế Lượng, Hình tượng người lính trong thơ văn xuôi (trường ca) Việt Nam sau 1975, www.vannghequandoi.com.vn.
[27]. Nguyễn Bá Long (2012), Giọng điệu thơ chống Mỹ, www.khoavanhoc – ngonngu.edu.vn.
[28]. Anh Mẫn (2012), Nặng tình với thơ, nặng nghĩa với đời, Chuyên đề báo Bảo vệ pháp luật, Hà Nội.
[29]. Hội Kiều học Việt Nam (2012), Dòng chảy văn hóa xứ Nghệ từ Truyện Kiều đến phong trào thơ mới, Nxb Văn học, Hà Nội.
[30]. Trần Quỳnh Nga, Văn học thiếu nhi Hà Tĩnh – một góc nhìn, www.baohatinh.vn.
[31]. Mai Hồng Niên (2012), Quê mình xứ Nghệ, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
[32]. Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Hà Tĩnh (2004), Hội viên và tác phẩm, Nxb Hà Tĩnh.
[33]. Nguyễn Ngọc Phú (1995), Đám mây màu vẩy cá, Nxb Lao động, Hà Nội.
[34]. Nguyễn Ngọc Phú (1997), Giấc mơ lưới, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
[35]. Hà Quảng (chủ biên) (2002), Lược yếu văn học Hà Tĩnh, Sở Giáo dục - Đào tạo Hà Tĩnh.
[36]. Hà Quảng (2008), Văn chương một góc nhìn..., Lý luận - Phê bình, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
[37]. Hà Quảng (2011), Hồng Lam – đất khoa bảng, đất văn chương, Nxb Thông tấn, Hà Nội.
[38]. Hà Quảng- Nguyễn Văn Quang (2011), Nhà văn Hà Tĩnh đương đại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
[39]. Nguyễn Hưng Quốc, Hình tượng thơ, www.phienbancu – tiengviet.edu.vn,
[40].Nguyễn Hữu Quý (2011), Khói hương thơm đến lạnh người, www.buiquangthanh.com.
[41]. Nguyễn Quyến (2011), Hoài niệm một mùa tình, www.buiquangthanh.com.
[42. Hải Sinh, Hình ảnh bộ đội trong thơ ca cách mạng Việt Nam. www.lethuy.edu.vn.
[43]. Trường Sinh, Thơ tự do,http://khoavanhoc – ngonngu.edu.vn.
[44]. Nguyễn Trọng Tạo, Thơ văn xuôi hay là thơ không vần, http://vietvan.vn,
[45]. Nguyễn Thanh Tâm, Thơ đương đại, www.vannghequandoi.com.vn.
[46]. Bùi Quang Thanh (1994), Một thời sao lãng quên, Nxb Hội VHNT Hà Tĩnh.
[47]. Bùi Quang Thanh (1998), Hạt đắng, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
[48]. Bùi Quang Thanh (2002), Đò dọc sông đêm, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
[49]. Bùi Quang Thanh (2003), Ngọn gió đòng sông, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
[50]. Bùi Quang Thanh (2007), Mật ong vàng lũng núi, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
[51]. Bùi Quang Thanh (2012), Hà Tĩnh một niềm yêu, www.buiquangthanh.com.
[52]. Bùi Quang Thanh (2011), Thơ tình Bùi Quang Thanh, www.buiquangthanh.com.
[53].Bùi Qung Thanh (2011), Về hai bài thơ ở ngã ba Đồng Lộc, www.buiquangthanh.com.
[54]. Bùi Quang Thanh (20110), Hội An – di sản: tình người, www.buiquangthanh.com.
[55]. Duy Thảo (2008), Đi dọc lối xanh, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
[56]. Nguyễn Văn Thông, Người lính trong thơ ca cách mạng, www.thptvinhlinh.edu.vn.
[57]. Lưu Khánh Thơ, Hình tượng người lính trong thơ ca cách mạng Việt Nam, http://violet.vn.
[58]. Thu Thủy (2014), Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong dòng chảy thơ ca đất nước, www.nuithanh.gov.vn.
[59]. Hội liên hiệp văn học nghệ thuật (2000), Thơ Hà Tĩnh thế kỉ XX, Sở văn hóa Thông tin Hà Tĩnh.
[60. Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Hà Tĩnh (2011), Nhà văn Việt Nam hiện đại tỉnh Hà Tĩnh, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
[61]. Vương Trọng (2011), Ngã Ba Đồng Lộc trong trái tim Bùi Quang Thanh, www.buiquangthanh.com.
[62]. Vương Trọng, Chùm những câu thơ rất khó xuống dòng của Bùi Quang Thanh, http://vannghe.net.
[63]. Tập thơ văn (1999), Một thời để nhớ, Sở Lao động thương binh xã hội Hà Tĩnh, Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Hà Tĩnh.
[64]. Trần Hải Vân (2010), Văn học thiếu nhi Hà Tĩnh, www.vanhocnghethuathatinh.org.vn.
[65]. Lê Văn Vị, Mật ong của Bùi Quang Thanh đưa về từ lũng núi,www.buiquangthanh.com.
[66]. Ngọc Yên, Thơ văn xuôi, http://ngocyen.vnweblogs.com.