NHỮNG ĐỨA CON
TRUNG ĐOÀN CẢNH VỆ
1, Nguồn cội
Tính tuổi theo “khai sinh” thì đến nay Trung đoàn Cảnh vệ 600 đã 68 tuổi, nếu lấy ngày 20/9/1954 – ngày Trung đoàn được thành lập và trong đội hình biên chế của Sư đoàn 350 thuộc Bộ Quốc phòng; Tuy nhiên, đi ngược về dòng sự kiện thì Trung đoàn 600 của Bộ Tư lệnh Cảnh vệ Công an nhân dân phải lấy mốc hình thành từ năm 1941 là năm lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vượt biên giới từ Trung Quốc về Cao Bằng để trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Hồi ấy, để chuẩn bị cho cuộc trở về an toàn, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tuyển chọn những thanh niên yêu nước của tỉnh Cao Bằng vì hoạt động cách mạng trong nước bị bại lộ phải lánh sang Côn Minh để bắt liên lạc với đồng chí, với Đảng. Những người này ngoài tấm lòng yêu nước, căm thù thực dân xâm lược, họ còn khỏe mạnh, thông thạo đường sá làng bản núi rừng, thông minh sáng tạo… Nhóm các chiến sĩ ấy được Bác và các bậc tiền bối cách mạng như Phùng Chí Kiên, Hoàng Sâm, Lê Quảng Ba giáo huấn về chính trị và các kiến thức quân sự, trinh sát, bảo mật, kỹ năng sống… trước khi được phiên chế vào đội hình, trở về lập căn cứ địa. Những người tiền nhiệm ấy đã tháp tùng và bảo vệ Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vượt biên giới ở cột mốc 108 Cao Bằng, lấy Pắc Bó làm căn cứ, chọn hang Cốc Bó cho Bác ở tạm rồi sau đó đưa Bác rời hang vào dựng lán trong rừng, lo bữa ăn giấc ngủ cho Bác và các lãnh đạo Trung ương suốt quá trình chuẩn bị Tổng khởi nghĩa, lại suốt 9 năm kháng chiến trường kỳ, cả sau chiến thắng Điện Biên - tháp tùng Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ từ Việt Bắc về Hà Nội… Những người đó chính là các tiền bối của Trung đoàn 600, cũng là tiền bối của lực lượng Cảnh vệ CAND bây giờ!
Là một lực lượng được sinh ra để làm sứ mệnh bảo vệ lãnh tụ, bảo vệ các cơ quan đầu não Trung ương, bảo vệ căn cứ địa mà đặc thù là đơn vị vũ trang trong hoạt động nghiệp vụ, tiền thân của Trung đoàn 600 bắt đầu từ Tiểu đội AT, AD lúc mới ra đời để bảo vệ An toàn khu (ATK) đến lúc trưởng thành cấp Đại đội(C32) rồi cấp Tiểu đoàn theo yêu cầu nhiệm vụ. Thật vinh dự trước lúc thành lập Tiểu đoàn (3/1953), Bác Hồ đã đến thăm đơn vị. Biết Tiểu đoàn có 600 cán bộ chiến sĩ, Bác đặt tên luôn là Tiểu đoàn 600.
Những năm ấy, cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo dồn dập sự kiện: các chiến trường quân ta đang trên đà phản công thắng lợi. Bao nhiêu việc cho chỉ đạo chiến đấu trên mặt trận quân sự, chiến đấu trên mặt trận ngoại giao, xây dựng hậu phương, phát triển kinh tế, mở mang đối ngoại; bao nhiêu kế hoạch chuẩn bị cho ngày hòa bình, kiến quốc. Rồi chiến thắng Điện Biên Phủ, Bác Hồ và Chính phủ cách mạng rời chiến khu Việt Bắc về tiếp quản Thủ đô; Hiệp định Giơ Ne Vơ chia đôi Bắc - Nam một nửa dân nước phải chịu sống dưới gót sắt quân thù, cách mạng miền Nam lại bắt đầu từ trứng nước…Tất cả những công việc lớn lao ấy đều liên quan đến nhiệm vụ của Tiểu đoàn 600: bảo vệ những cuộc họp, những chuyến đi của lãnh tụ và lãnh đạo Trung ương tuyệt đối bí mật, an toàn. Để đáp ứng nhu cầu cấp bách của sự phát triển chung, ngày 20/ 9/1954, Tiểu đoàn 600 được phát triển thành Trung đoàn và vẫn được giữ nguyên tên mà Bác Hồ đã đặt.
Có thể nói, nhiệm vụ trọng đại và vinh quang nhất của người chiến sĩ cảnh vệ là thường xuyên được ở gần Bác Hồ, canh bữa ăn giấc ngủ cho Người, bám sát theo từng bước chân dấu ngựa của Người trên non xa rừng thẳm, qua ngọn suối nguồn khe. Được Bác ân cần dạy dỗ, động viên khích lệ quả thật là hạnh phúc muôn năm. Chiến sĩ Ngô Văn Núi đêm canh cho Bác làm việc, nghĩ đến hoàn cảnh xuất thân bần cùng của mình, nay có cách mạng, có Bác mà được ngẩng cao đầu làm người lính bảo vệ tinh hoa đầu não Đảng và Chính phủ mà xúc động đến ngất ngây. Trong sự lâng lâng ấy anh vô tình trượt chân rơi xuống cái hố tránh máy bay cá nhân được đào bên lán của Bác. Cú ngã bất ngờ làm người lính trẹo chân, báng súng tiểu liên đập vào đầu gối vang lên tiếng động khô khốc trong đêm tối. Anh cắn chặt răng nén đau và tìm cách bò lên bờ để làm nhiệm vụ. Ý nghĩ nếu lúc này mà có kẻ địch lẻn vào lán Bác, xông vào chỗ ngọn đèn đang sáng lắt lay mà không có anh chặn lại làm anh hốt hoảng. Chợt trong đêm khuya, một tiếng hỏi khẽ: “Chú nào ngã đấy?”. Đúng là tiếng Bác! Anh lính chưa kịp thưa thì hai bàn tay Bác đã luồn vào nách anh, kéo anh đứng dậy và đưa lên khỏi miệng hầm. Giọng Bác ân cần lo lắng: “Chú ngã có đau không?”. Người chiến sĩ cảnh vệ rưng rưng nhìn Bác. Qua ánh đèn dầu hắt từ liếp nứa, anh chợt nhận ra Bác không kịp khoác áo bông, hai chân đi tất mà chỉ một chân có guốc, trời thì lạnh thế này… Rồi Bác nói như ra lệnh: “Chú cứ ngồi xuống bóp chân đi. Để Bác gác cho!”. Đêm núi rừng Việt Bắc lạnh căm mà lòng anh ấm áp hạnh phúc vô cùng.
Có chiến sĩ cảnh vệ được tháp tùng Bác đi chiến dịch. Anh em phấn khởi, chỉ mong được có dịp chăm sóc Bác cho đỡ lòng kính yêu mong mỏi. Nhưng qua suối Bác vẫn lội, lên dốc Bác vẫn trèo, túi dết chứa tài liệu Bác vẫn mang theo bên mình không để ai phải nặng thêm ngoài hành trang của họ. Dù băn khoăn day dứt nhưng học được phẩm chất kiên cường, tự lực và lòng thương yêu chiến sĩ của vị Cha già; Lại có chiến sĩ cận vệ (sau này lên đến chức Thượng tướng Quân đội nhân dân) lần đầu tiên được tháp tùng Bác sang Trung Quốc bằng đường “xuyên sơn”. Đường dài quanh co, hai Bác cháu ăn suối ngủ rừng, thực phẩm mang theo ngày một eo hẹp. Thương Bác tuổi cao sức yếu, người cận vệ xin Bác vô bản, “làm công tác dân vận” với trưởng bản được một con gà. Hí hửng phen này có thịt gà tẩm bổ cho Bác, ai ngờ Bác biết tỏng anh chàng vào hạch sách dân. Bác bắt vô trả lại gà, xin lỗi chủ nhân và hứa chiều nay Bác đãi. Đúng là bữa chiều ấy Bác đãi thật. Từ cái túi dết bất ly thân , Ông Cụ moi ra một ống nứa được buộc chặt để tận đáy túi và cẩn trọng giốc một ít muối có lẫn thịt xay. Sung sướng vì đã mấy ngày đói muối, chàng cận vệ nhón tay cho ngay một nhúm vào miệng. Nhưng chàng ta bỗng á lên một tiếng rồi nhổ miếng muối ra tay, mặt mũi nhăn nhúm lại. Cay quá! Cay quá! Ông Cụ bật cười: “Cũng may là chú còn biết nhổ ra tay để ăn lại chứ nếu nhổ ra đất thì chết với Bác”…
Những câu chuyện đó, những tình cảm và việc làm đó của Bác Hồ, chỉ những người gần gũi nhất, sát cánh nhất mới được chúng kiến. Và những người được sống trong môi trường người chiến sĩ Cảnh vệ thật sự là những người hạnh phúc!
2, Thầm lặng hy sinh
Kể về họ, chắc chắn chẳng có sách bút nào viết hết những chiến công thầm lặng, những việc làm tưởng thường nhật nhưng rất đỗi đặc biệt của những “cấm vệ binh”. Do đặc thù nghề nghiệp và phận sự mà cho đến nay các hoạt động của lực lượng này vẫn trong vòng bí mật và có lẽ đến muôn sau vẫn trong vòng bí mật. Với tôi, trước đó gần như chưa có dịp nào tiếp cận với công việc của lực lượng Cảnh vệ, chưa phân biệt được đơn vị nào làm nhiệm vụ gì, đâu là vòng trong, vòng ngoài; đâu là hoạt động công khai, những ai hoàn toàn bí mật. Họ dùng vũ khí gì, phương tiện gì khi làm nhiệm vụ? Trang phục, cảnh phục, binh phục của họ khác nhau ở đâu, có tác dụng gì khi ứng chiến…. Liệu có cần phải biết tỉ mỉ vậy không và để làm gì? Nếu ai đó đặt ra câu hỏi ấy thì xin thưa rằng: đó chính là thiệt thòi nhất của lực lượng Cảnh vệ của chúng ta. Hầu hết các hoạt động của an ninh, vũ trang, chính trị (kể cả hoạt động tình báo, triệt phá tội phạm các loại…) sau khi công việc hoàn thành, có thể theo thời gian hay giai đoạn, hay tính chất công vụ mà dần dần chiến công của họ được đề cập; những hy sinh mất mát được công khai, những câu chuyện, chi tiết li kỳ được chuyển thành truyện, ký, phim ảnh… Riêng lực lượng Cảnh vệ, tôi đoan chắc dù đã về hưu, đã chuyển ngành, đã qua những giai đoạn thời kỳ …thì công việc “làm khiên làm giáp” của họ cho lãnh tụ, lãnh đạo, quan khách, yếu nhân quốc gia cũng không ai được đề cập. Ví như chuyến tháp tùng Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn từ Hà Nội vào trực tiếp chỉ đạo cách mạng miền Nam (1954), một tiểu đội cảnh vệ đã lặn lội xuyên Việt bằng con đường bí mật, đưa đồng chí Lê Duẩn vào tận nơi và trở về an toàn tuyệt đối trước những cặp mắt tình bào Mỹ - ngụy; chuyến bảo vệ và đón đưa Đoàn lãnh đạo Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ra thăm miền Bắc giữa thời kỳ cách mạng miền Nam đang còn trứng nước; Đón đưa và bảo vệ lãnh tụ cách mạng Cu Ba sang thăm vùng giải phóng ở Quảng Trị năm 1973… Sự kiện lớn thì cả thế giới biết, bọn giặc thì bất ngờ tức tối; quân dân ta vui mừng cảm phục những người đã tổ chức thành công những cuộc xuyên vòng lửa ấy, nhưng họ là ai, đi ẩn về hiện như thế nào, hiểm nguy vất vả ra sao thì dù biết, dù nghe cũng không ai được nói, được kể, được viết.
Xung quanh lịch sử ngành Cảnh vệ CAND Việt Nam, dù chưa có một dòng sử liệu nào nói tới ai là những người được cử làm nhiệm vụ bảo vệ Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ những ngày cách mạng còn trứng nước, riêng tôi được nghe một thông tin khá thú vị về nhân vật Tạ Đình Đề. Theo nhà văn Dương Thanh Biểu nguyên Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, tác giả cuốn truyện ký “Tạ Đình Đề những góc khuất cuộc đời” thì có một giai đoạn ngắn khi Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về hoạt động ở Vân Nam để tập hợp các đồng chí của mình, tổ chức ở đây đã chọn một số thanh niên yêu nước, giỏi võ thuật để bảo vệ Người. Cũng thời gian này, qua mối quan hệ của Bác và các quan chức Quốc dân đảng (Tưởng Giới Thạch), Tạ Đình Đề được tổ chức cử đi học lớp tình báo do Mỹ - Tưởng huấn luyện rồi được quân Đồng Minh giao nhiệm vụ “quốc tế”: về Việt Nam theo giõi hoạt động của quân đội phát xít Nhật. Khi Cách mạng tháng Tám thành công, ông được giao nhiệm vụ chỉ huy Đội Biệt động quân của thành phố Hà Nội, trực tiếp chiến đấu giữa lòng thành phố cho đến ngày giải phóng Thủ đô.… Nhà văn Dương Thanh Biểu lúc còn làm ở Vụ Kiểm sát án an ninh quốc gia của Viện KSNDTC là người trực tiếp thụ lý điều tra vụ án Tạ Đình Đề và những thông tin trên đây, theo ông là bản tường trình của Tạ Đình Đề với các cơ quan chức năng. Vậy thì xa hơn nữa, ngay cả khi Bác còn hoạt động ở nước ngoài đã manh nha những bóng hình người cận vệ của các lãnh tụ Đảng ta không chỉ khi về chiến khu Việt Bắc mà cả ở bên kia biên giới Việt Trung. Có lẽ vì bí mật mà cho đến sau này, khi con người mang đầy huyền thoại ấy đã về cõi vĩnh hằng thì chưa một tài liệu nào, văn bản nào, bài báo thước phim nào đề cập đến những ngày anh thanh niên Tạ Đình Đề làm cận vệ cho Bác.
Tôi hiểu thêm về các anh khi may mắn được chứng kiến và chụp ảnh buổi thực tập chống khủng bố, chống ám sát, bảo vệ các nguyên thủ quốc gia. Chỉ một loáng khi sự vụ xảy ra, những chàng trai đẹp như nam thần, ăn mặc bảnh bao chu chỉnh (comle cà vạt, giày đen bóng) như quan khách trở thành những chiến binh với súng ngắn, tiểu liên, với va li tấm chắn lăn xả vào trận chiến tiêu diệt kẻ đột nhập, che chắn bằng mọi cách, mọi phía cho các yếu nhân. Ngay chiếc va li gọn gàng xinh xắn các “nam thần” không bao giờ rời trên tay, khi lâm trận chính là tấm giáp dùng để che đạn cho đối tượng mình bảo vệ; thậm chí khi có quả nổ rơi vào giữa đội hình, người chiến sĩ cảnh vệ có thể dùng tấm chắn đó trùm lên quả nổ cùng với cả tấm thân dũng sĩ - thịt xương do cha mẹ sinh thành của mình để hạn chế tối đa hậu quả sát thương, đảm bảo an toàn cho đối tượng mình bảo vệ.
Trong ngành Cảnh vệ có một tấm gương về lòng quả cảm sẵn sàng hy sinh thân mình để bảo vệ yếu nhân là khách nước ngoài, đó là Đại tá Trần Thị Ngọc Đoàn. Ngày 18/4/1966, khi Thượng úy Đoàn bảo vệ Ủy viên Trung ương Đảng cộng sản Venezuela – nữ đồng chí Alica Zanizet, sang thăm và học tập kinh nghiệm chiến tranh nhân dân của ta. Trên đường xuống Quảng Ninh, máy bay địch oanh tạc vào đội hình đoàn công tác. Trong đêm tối, Thượng úy Đoàn đã quả cảm lấy thân mình nằm úp lên người nữ đồng chí ấy để che chắn cho bà khi bom nổ sát bên mình. Khách an toàn tuyệt đối. Thượng úy Đoàn bị thương do vật cứng rơi vào lưng phải về bệnh viện điều trị. Tấm gương dũng cảm hy sinh vì đối tượng bảo vệ của chiến sĩ Cảnh vệ Trần Thị Ngọc Đoàn đã làm nữ đồng chí Alica Zanizet và đoàn khách nước bạn vô cùng cảm phục, xúc động.
Tôi đã được chiêm ngưỡng các chiến sĩ đặc nhiệm cảnh vệ mũ sắt áo giáp nai nịt oai phong đu dây từ nhà cao chục tầng, “lên bằng gậy, xuống bằng tay” nhẹ nhàng hơn cả loài nhện. Họ tập luyện lên xuống như vậy là công việc hằng ngày, chỉ đợi những khi Đảng cần, Dân gọi là sẵn sàng xông vào lửa đạn. Tôi đã được ngắm nghía những đoàn mô tô hộ tống oai phong và đẹp đẽ khi có những sự kiện trọng đại của đất nước, khi nguyên thủ quốc gia đón khách quốc tế. Ngoài lực lượng Cảnh sát giao thông dẫn đường thì “họ” chính là những chàng lính Cảnh vệ đang hộ tống Đoàn. Không chỉ sang, chỉ đẹp, chỉ nghi lễ thôi đâu; đằng sau đó là cả một thế trận bảo vệ an ninh quy mô, chặt chẽ , khoa học và hiệu quả. Đó là các lực lượng của Trung đoàn Đặc nhiệm 312, Trung đoàn 375, của Phòng Bảo vệ Lãnh đạo Đảng và Nhà nước….
Chúng ta cũng it được biết đến những việc làm và chiến công thầm lặng của cán bộ và chiến sĩ Cảnh vệ thuộc Phòng Kỹ thuật bảo vệ. Họ là những người làm công tác khoa học kỹ thuật được hình thành bởi nhiệm vụ đảm bảo an toàn sức khỏe Lãnh tụ Hồ Chí Minh và các đồng chí Trung ương từ những năm hòa bình lập lại ở miền Bắc. Buổi thù trong giặc ngoài như rươi, lực lượng chúng ta hầu hết đều non trẻ; kẻ thù thì già dơ, thâm độc, thủ đoạn và hung hãn. Cùng với các loại hình khủng bố khác như súng, bom, hung khí, ám sát, phục kích… chúng còn dùng các thủ đoạn ám muội khác như đầu độc qua môi trường, qua cái ăn thức uống, qua nhiều cách tiếp cận cơ thể tinh vi và thâm độc. Nhiệm vụ của họ là bằng mọi giá phải tuyệt đối an toàn, tuyệt đối không chủ quan khinh suất.
Hồi bé, tôi được nghe một câu chuyện “Ma Việt Bắc” khá rùng rợn. Câu chuyện kể có hai cán bộ đi từ vùng địch hậu về chiến khu. Đêm ấy họ vào một quán trọ ven rừng nghỉ lại. Khi người bạn nằm phía ngoài ngủ say, anh cán bộ nằm phía trong đang thiu thiu chợt nghe tiếng thạch sùng kêu đâu đó. Anh mở mắt thì thấy một cái lưỡi xanh len lét bay lơ lửng từ phía bếp bay ra, lượn lờ trên không gian chổ các anh nằm. Chưa biết là vật gì thì chiếc “lưỡi” xanh len lét ấy sà xuống liếm nhẹ vào mặt anh nằm ngoài. Khi chiếc “lưỡi” bay đi, anh nằm trong sờ vào bạn thì bạn đã tắt thở rồi. Biết là có kẻ ám hại và nó sẽ còn trỏ lại, trong tay không có vũ khí tự vệ, anh liền đẩy bạn vào nằm trong còn mình thì thế vào chổ người vừa mất. Rồi cái lưỡi lại hiện ra, xanh len lét. Một cú liếm nữa vào mặt người nằm phía trong rồi bay đi. Người cán bộ thoát về cả đêm báo cho cơ quan biết và vụ án đã được sáng tỏ ngay sau đó khi bộ đội bất ngờ tập kích quán trọ ven rừng. Đó là nhóm ám hại cán bộ ta do bọn Pháp cài lại.
Câu chuyện ma mị ấy chẳng biết thực hay hư nhưng cũng nói lên được con đường hiểm nguy và bao cạm bẫy rình mò, cả miếng ăn giấc ngủ của người chiến sĩ cách mạng; cũng là một lời cảnh tỉnh hãy nâng cao cảnh giác
Truyền thống Trung đoàn
– Truyền thống cha anh:
Trở lại với Trung đoàn 600 Anh hùng, là đơn vị được giao nhiệm vụ vũ trang trực tiếp bảo vệ an toàn khu vực trụ sở làm việc các cơ quan trọng yếu, nơi ở thường xuyên của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước; bảo vệ các cuộc hội nghị, mít tinh do Đảng, Nhà nước tổ chức, các đoàn khách quốc tế sang thăm và làm việc tại VN, suốt chặng dài lịch sử của đơn vị, Trung đoàn đã được tặng những danh hiệu cao quý: Anh hùng lực lượng vũ trang, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất, Huân chương Độc lập hạng Nhì, Huân chương Quân công hạng Nhất, Huân chương Lao động, Huân chương Chiến công… Đồng chí Trần Văn Nhỏ - sỹ quan của Trung đoàn được tặng danh hiệu Anh hùng lưc lượng vũ trang nhân dân.
Truyền thống Trung đoàn được giữ vững và phát huy ngày càng tươi thắm. Cán bộ và chiến sĩ hiểu rõ nhiệm vụ trong đại của chính mình, của đơn vị mình đều cố gắng học tập và rèn luyện. Trò chuyện với anh em văn nghệ sĩ trong chuyến tiếp xúc ở trại viết của Bộ Tự lệnh Cảnh vệ, Trung đoàn phó Phan Cao Thanh cho biết: Thế hệ chúng tôi nhận nhiệm vụ ở Trung đoàn khi tuổi quân của đơn vị ngót nửa thế kỷ. Có nghĩa chúng tôi là cháu của các thế hệ đầu tiên tháp tùng Bác, thế hệ làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám lịch sử và 9 năm kháng chiến chống Pháp; Chúng tôi là con của thế hệ đánh thắng giặc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc. Thế hệ chúng tôi đảm nhận nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ thành quả của ông cha, đó là niềm vinh dự, tự hào nhưng đó cũng là trách nhiệm nặng nề. Trong đơn vị chúng tôi có không ít những đồng chí là con các liệt sĩ, thương binh đã hy sinh xương máu cho đất nước. Và để minh chứng điều đó, nữ Trung tá Kiều Ân – Trưởng Ban Chính trị Trung đoàn cho tôi gặp hai người lính trong số họ.
Trung tá Mai Văn Cường là con trai duy nhất của liệt sĩ Mai Văn Sách. Ông Sách sinh năm 1948 tại xã Phú Lạc, huyện Cẩm Khê, Phú Thọ. Mười tám tuổi ông Mai Văn Sách tham gia lực lượng TNXP, vào tuyến lửa khu 4 đảm bảo giao thông rồi được chuyển sang quân đội, vào Quân chủng Không quân. Sau một thời gian huấn luyện trong nước, ông được sang Liên Xô học lái máy bay chiến đấu. Bốn năm học tập và rèn luyện, ông trở về lái các loại MiG chiến đấu bảo vệ vùng trời của Tổ quốc. Khi bọn Khơ Me đỏ gây hấn biên giới Tây Nam, ông cùng đơn vị chuyển vào căn cứ không quân ở Biên Hòa và từ đây cất cánh sang đánh giặc Pon Pot, phối hợp cùng các đơn vị mặt đất giải phóng đất nước Cam Pu Chia khỏi họa diệt chủng.
Ngày 30 tháng 10 năm 1986, Trung tá Phó Trung đoàn trưởng kiêm Phi đội trưởng Mai Văn Sách hướng dẫn một học viên tên là Trường tập bay “chuyển đổi” trên chiếc Su 22 – loại máy bay mới nhất của chúng ta vừa tiếp nhận. Theo Nhà văn - Đại tá Nguyễn Minh Ngọc, một người lính kì cựu của bộ đội Không quân, tác giả biên kịch bộ phim dài nhiều tập “Cao hơn bầu trời” cho biết: Su 22 có hình dạng giống MiG 21 nhưng to lớn, kềnh càng, là máy bay tiêm kích bom có tốc độ siêu thanh. Từ MiG 21 chuyển sang bay Su 22 là cả một quá trình khổ luyện và ta đã phải trả nhiều giá máu xương cho những cuộc chuyển đổi như vây.
Cất cánh từ sân bay Sao Vàng, khi đang thực hành những bài tập theo giáo án thì máy bay gặp sự cố kỹ thuật. Không kịp trở về sân bay, Trung tá Sách quyết định hạ cánh khẩn cấp xuống cánh đồng, hy vọng cứu được máy bay nhưng thật không may, trên đường đáp xuống các anh phát hiện một trường học trước mũi bay buộc phải ngóc lên tránh và máy bay đã lao vào dãy núi đá trước mặt thuộc địa phận huyện Nông Cống, cả hai phi công hy sinh. Năm đó cậu bé Mai Văn Cường chưa đầy 9 tuổi là con trai duy nhất của vợ chồng ông Sách. Bà Nguyễn Thị Giản – mẹ của Cường lúc ấy mới 37 tuổi nhưng quyết tâm ở vậy nuôi con trưởng thành.
Là con liệt sĩ, Cường được địa phương thu xếp đi học nghề và chuẩn bị công việc cho anh nhưng “máu lính” trong chàng trai con nhà nòi ấy cứ giục giã cậu lên đường nhập ngũ. Gửi mẹ lại cho bà ngoại và các dì, Cường đăng ký nghĩa vụ quân sự và được điều về Trung đoàn Cảnh vệ 600. Tại đây con trai người liệt sĩ phi công đã phấn đấu hoàn thành nghĩa vụ 3 năm, được đi học trường Trung cấp An ninh rồi tốt nghiệp Đại học An Ninh; tiếp tục tốt nghiệp Cao cấp chính trị. Quá trình công tác và học tập của Mai Văn Cường là một chuỗi ngày phấn đấu không mệt mỏi. Bóng hình của người cha liệt sĩ, công lao chăm sóc nuôi dưỡng của người mẹ góa bụa mà thủy chung đã tạo cho anh sức mạnh vượt qua mọi khó khăn của hoàn cảnh để phấn đấu.
Tôi hỏi Mai Văn Cường có ghi được dấu ấn gì về bố mình không. Cường kể rằng, có một lần duy nhất mẹ đưa Cường vào thăm bố đóng quân ở sân bay Biên Hòa. Đó là lần Cường biết được chút gì đó về công việc của bố và những người phi công. Bố Sách hỏi sau nay con thích làm gì? Cường bảo con thích đi bộ đội. Chính kỷ niệm và lời hứa ấy thúc dục Cường vào lính và tích cực hoàn thành nhiệm vụ. Trung tá Mai Văn Cường hiện là Phó Ban hậu cần Trung đoàn, một công việc “bếp núc” mà vô cùng quan trọng, chi tiết, rõ ràng, khoa học và phải có nghiệp vụ giỏi mới quán xuyến được.
Thiếu tá Trần Thanh Quý là con trai của chiến sĩ “Cảm tử quân” thời đánh Mỹ Trần Thanh Giáp. Khi giặc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, chàng thanh niên Trần Thanh Giáp vừa tròn hai mươi tuổi. Anh tình nguyện nhấp ngũ và đến nhận nhiệm vụ ở Tiểu đoàn 30 công binh trực thuộc Sư đoàn 341 Quân khu 4. Sau mấy tháng đào tạo kỹ thuật công binh, đơn vị anh được giao nhiệm vụ xây dựng các trận địa cho pháo binh bảo vệ bờ biển dọc hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Mấy năm trường lăn lộn trong không gian phục vụ chiến đấu vô cùng khẩn trương, gian khổ và ác liệt, anh đã cùng đơn vị mở đường khoét núi đá cho pháo 130 li vươn nòng bắn cháy tàu chiến giặc trên biển Đông.
Đầu năm 1968, giặc Mỹ ném bom “hạn chế” miền Bắc, thực chất là chúng tập trung sinh lực đánh phá “eo ruột miền Trung) từ vĩ tuyến 20 trở vào. Trần Thanh Giáp được điều về D15 công binh. Làm nhiệm vụ đảm bảo giao thông ở Ngã ba Đồng Lộc. Mấy tháng trời trong mưa bom bão đạn, anh đã cùng đồng đội rà phá hàng trăm quả bom nổ chậm, bom từ trường ở “Ngã ba bom” ấy. Rồi Tiểu đoàn của anh được điều sang Lào mở đường tây Trường Sơn để nối dài vươn rộng các ngả đường vào chiến trường B, sang chiến trường C, chia lửa với các cung đường huyết mạch đông Trương Sơn. Cuối năm 1971, khi giặc Mỹ rục rịch đánh phá trở lại miền Bắc, Trần Thanh Giáp lại được điều động về D25 công binh Quân khu 4. Tại đây anh được cử đi học thêm kỹ thuật tháo gỡ bom mìn, chuẩn bị cho những cuộc chiến đấu mới cam go hơn, ác liệt hơn.
. Ngày 9-5-1972, đế quốc Mỹ cho hàng loạt máy bay từ Hạm đội 7 ở Biển Đông bay vào thả hàng ngàn quả thủy lôi, bom từ trường xuống luồng Cửa Hội, Sông Gianh cùng nhiều cửa sông chính thuộc các tỉnh miền Bắc. Đợt phong tỏa này làm giao thông ra vào các cảng bị tê liệt. tàu của các nước Liên Xô, Ba Lan, Trung Quốc, Cu Ba.. tiếp ứng cho ta phải nằm ngoài phao số 0; hàng hóa, vũ khí, thuốc men tiếp viện không vào được các cảng để tiếp tế cho chiến trường. Theo thống kê, tại cửa Hội đã có trên 1300 quả bom mìn các loại quân Mỹ rải xuống. Trước tình hình đó, Bộ Tư lệnh Quân khu 4 quyết định cho công binh mở đường máu để tàu thuyền của ta ra tận phao số 0 nhận hàng. Ngày 26 tháng 6 năm 1972, Tiểu đội Cảm tử quân gồm 8 chiến sĩ công binh do Trần Thanh Giáp phụ trách làm lễ tuyên thệ và truy điệu sống trong đất liền rồi dùng xuồng cao su, (chở theo nửa tạ thuốc nổ TNT, dây dẫn và thiết bị phát “từ trường” để kích nổ bom) ra biển. Trên người mỗi cảm tử quân, duy nhất là chiếc quần cộc và chiếc phao bơi tròn quấn quanh người, kẹp dưới hai nách.
Xuất phát từ bến thuyền xã Nghi Thọ, men theo luồng lạch tàu thuyền vẫn thường vào ra, tiểu đội công binh vừa đi vừa cho máy xung từ hoạt động để kích nổ những quả bom xung quanh đường họ đi. Bọn Mỹ thả nhiều loại bom mìn trôi nổi trong sóng nước, có loại chìm sâu xuống đáy chờ tàu thuyền đi qua. Với tác động của máy phát sóng từ trường, nhiều quả bom nổ tung, có quả nổ rất gần chiếc xuồng, sóng nước dựng lên thành cột, mảng bom tung tóe , bùn nước ào ào rơi. Cả tiểu đội không nao núng, vừa đi vừa mở rộng tầm rà phá. Ra đến chừng hai cây số, một quả bom đã nổ ngay sát chiếc xuồng. Sau tiếng nổ xé trời ấy, cả chiếc xuồng và các chiến sĩ tung lên không trung rồi rơi xuống biển…
Bảy đồng đội hy sinh, riêng Trần Thanh Giáp bị nát toàn bộ chân trái, chìm xuống đáy biển. Thật kỳ lạ, anh kịp tỉnh dậy trong giây lát, dùng chân còn lại và hai tay khuấy đạp ngoi lên mặt biển, chiếc phao bơi đã bị xẹp tự khi nào. Vốn có khả năng bơi lội từ bé bởi thời thiếu niên nhà anh vào ở thị trấn Cẩm Xuyên sát dòng sông Hội nơi có bến thuyền đông vui, bạn bè thi nhau tập bơi lặn từ thuở bé; phần nữa biển ở đây cũng không sâu, Trần Thanh Giáp nén đau ngấp ngoi trên mặt biển như vậy, chân phải và tay giữ cho người có thể trồi mặt trên nước mà thở, vừa tìm đồng đội vừa qua sát xem tàu thuyền nào đi qua mà gọi cấp cứu. Khá lâu sau anh được một chiếc thuyền chài của hai cha con người đánh cá ở biển Nghi Lộc chèo đến. Người cha đặt anh lên thuyền để cô gái xé áo của bố băng bó cho anh, còn ông theo chỉ dẫn của anh Giáp - chèo thuyền đi tìm những người khác. Cô gái thấy vết thương của anh Giáp quá nặng thì giục cha cho thuyền vào bờ ngay để kịp cứu anh. Lúc này Thê đội hai của đơn vị anh cũng vừa tới, Trần Thanh Giáp chỉ vị trí đồng đội gặp nạn để họ tiếp tục tìm kiếm cứu người trước khi chiếc thuyền câu chở anh vào bờ. Tại trạm cấp cứu của Hải quân ở Cửa Hội, sau khi sơ cứu băng bó, anh được chuyển gấp trong đêm lên Quân y viện 4.
Tám tháng trời chết đi sống lại vì cái chân dập nát, không biết bao nhiêu lần hoại tử phần thịt, nhiễm trùng phần xương tủy; không biết bao nhiều lần hồi sức cập cứu và phẫu thuật cắt bò, cấy ghép... Mắt bị mờ, tai bị điếc vì khói bom và tiếng nổ quá gần, sức khỏe sa sút, Trần Thanh Giáp được chuyển ra Quân y viện 109 ở Vĩnh Yên để điều trị. Dù đã được cứu chữa với tinh thần tích cực nhất, cái chân của anh như một khối thừa bám sát cơ thể anh, anh vĩnh viễn bị tàn tật.
Sự hy sinh của Tiểu đội Cảm tử quân do Trần Thanh Giáp chỉ huy đã làm rung động bao trái tim đồng đội và nhân dân lúc đó. Đơn vị tổ chức học tập tinh thần quả cảm sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc của họ. Nhiều nhóm Cảm tử quân thay họ ra khơi rà phá bom mìn, giải phóng tuyến đường biển đang bị địch bủa vây bằng bom mìn để hàng tiếp viện từ các nước anh em vào đất liền và đi tới các chiến trường B chiến trường C đang ở thời kỳ quyết liệt. Anh Giáp được tặng Huân chương Chiến công hạng Ba.
Cuộc tình của Trần Thanh Giáp với chị Nguyễn Thị Thanh – cũng có thể là một thiên tình sử. Chị Thanh cũng là một thương bình chống Mỹ từng phục vụ chiến đấu ở chiến trường Lào. Sau khi bị thương ở mặt trân Bo Li Khăm Xay, bà được trở về nước anh điều dưỡng rồi ở luôn Đoàn 70 công tác. Bà là người trực tiếp chăm sóc thương binh Trần Thanh Giáp khi ông điều trị ở đây. Họ thành vợ thành chồng.
Câu chuyện về thương binh Cảm tử quân Trần Thanh Giáp tôi kể trên đây, chính tôi đã ngồi nghe anh Giáp kể lại. Tôi xin được viết để đưa lên báo nhưng bác ấy chỉ cười: “Việc qua lâu rồi, mình may mắn sống trở về, có con có cháu yên hàn là toại nguyện lắm rồi chú ạ. Những người hy sinh cùng nhiệm vụ hôm ấy thực ra mình chưa kịp nhớ hết tên của họ vì tiểu đội được ghép mỗi người một nơi mới hai ngày là đi làm nhiệm vụ.”
Nhà tôi và nhà anh Giáp gần nhau, tuổi chênh nhau đến nửa con giáp nhưng cùng thế hệ. Vậy mà tôi cũng mới biết cụ thể trường hợp bị thương tật của anh qua một người bạn chung. Ông bà có 4 người con, hai gái hai trai. Dù là thương binh hạng nặng đặc biệt, một chân bị dập nát từ xương tới da thịt và 50 năm qua vẫn không chịu trở thành “vết sẹo” mà nó theo anh, hành hạ anh bất cứ lúc nào, Trần Thanh Giáp vẫn nén đau bằng một nụ cười “tỏa nắng” để động viện vợ con vui sống và vượt qua mọi gian khổ. Thương yêu bố mẹ, các con anh chị đều trưởng thành trong cuộc sống học tập và mưu sinh. Hai cô chị và cậu út ở gần đỡ đần ông bà khi ốm đau bệnh tật. Riêng Trần Thanh Quý – cậu con trai lớn của họ hiện là Thiếu tá đang làm nhiệm vụ ở Trung đoàn Cảnh vệ 600 Anh hùng. Quý cũng là lính nghĩa vụ. Sau 3 năm phục vụ trong Trung đoàn 600, Quý được giữ lại đi học Đại học An ninh rồi được điều về làm đại đội phó Đại đội 6. Anh chàng tuổi Giáp Tý , thân hình vạm vỡ với nước da ngăm ngăm và nụ cười tươi bởi chiếc răng khểnh, rất vui khi bất ngờ gặp tôi – bạn của bố Giáp - ngay tại Trung đoàn đơn vị nhưng lại lúng túng khi được hỏi về công việc của mình: “Bọn cháu có nhiệm vụ bảo vệ mục tiêu là các nơi ăn nghỉ của các Bác, cho đến nay chưa hề xảy ra sơ suất gì”. Tôi hỏi Quý: “Trực tiếp bảo vệ nơi ăn nghỉ của các vị cao cấp ấy, cháu có thấy cuộc sống đằng sau chính trường của họ có gì khác đặc biệt không?” Quý bảo: Được tiếp cận gần với một số các bác, cả gia đình các bác nữa, cháu đặc biệt ấn tượng với cuộc sống giản dị của họ. Có bác làm chức cao nhất nhưng về nhà thì thấy bác vẫn làm những việc trong nhà, bác gái vẫn xả nước vào chậu giặt áo quần bằng tay. Hai bác ấy rất thương anh em cảnh vệ, thậm chí có quả mít chín cũng bắt anh em mang về; họ coi chúng cháu như con cháu trong nhà, biết hết tên tuổi thậm chí còn biết cả hoàn cảnh gia đình từng đứa. Đi làm nhiệm vụ bảo vệ nhưng anh em ai cũng thấy được yêu thương quý mến nên lòng thấy ấm áp. “Vậy câu chuyện bố cháu bị thương trong lúc đi Cảm tử, cháu biết không?”. “Bọn cháu biết chứ ạ. Bố mẹ vẫn thường kể lại những thời ác liệt và gian khó của đất nước và của gia đình. Và đó cũng là niềm tự hào động viên cho cháu để làm tốt hơn phận sự người lính cảnh vệ của mình”!
Hà Nội, 10/2022
BQT