Bùi Quang Thanh
TIẾNG CHIM RỪNG BẠCH MÃ
Truyện kí*
;Bên một hẻm phố của cố đô Huế, gã trai quê xanh gầy đứng chào bán một con chim lạ. Con chim nặng cỡ vài kí, lông màu mun có những chấm sáng sao, đuôi dài lết thết có dễ đến vài mét, trên chỏm đầu nhỏ thó luôn nghiêng ngó dáo dác có chiếc mào màu trắng dài chảy nghiêng một bên mắt. Nhìn con chim dở công dở phượng ai cũng trầm trồ thán phục nhưng chẳng ai biết là chim gì, ăn uống nuôi nấng ra sao, để làm cảnh hay để giết thịt... vì vậy anh chàng nhà quê ấy đứng suốt mấy tiếng đồng hồ, giữa sự tò mò hiếu kì của trẻ con và người lớn cả đường phố, vẫn chưa có ai cất tiếng trả một câu. Xế trưa thì có hai người đàn ông đi xe máy sán đến. Họ ngắm nghía con chim, gang tay đo sải đuôi, hỏi cách chăm nuôi, giá cả. Sau khi ngã giá một cách dễ dàng, hai người bảo gã trai quê xách chiếc lồng ngồi lên sau xe về nhà nhận tiền. Anh chàng lóng ngóng ngồi sau lưng người lái, người còn lại ngồi phía sau cùng, dùng tay đỡ chiếc lồng chim với lý do là “sợ gãy chiếc đuôi dài tuyệt đẹp”. Chỉ một loáng, cả ba người và chú chim dở công dở phượng ấy đã ngồi trước bàn làm việc của thường trực Chi cục kiểm lâm. Gã trai quê ngồi nghe những cán bộ kiểm lâm vạch tội mình vi phạm những điều này điều nọ trong lâm luật mà ngớ ra, mà sợ toát mồ hôi. Gã khai: gã là Trương Cảm, quê ở Phú Lộc, bố mẹ làm ruộng, gã làm nghề săn bắn và bẫy chim thú. Con chim này gã đánh bẩy bắt được ở một mỏm đồi “yên ngựa” trong rừng Bạch Mã. Cũng qua mấy cán bộ Kiểm lâm, gã biết tên con chim này có tên là Trĩ sao, một loài chim quý hiếm đã được ghi vào sách đỏ thế giới. Trương Cảm chẳng biết sách đỏ thế giới là gì, loài trĩ này quý đến đâu, với ai. Chỉ biết rằng ở rừng Bạch Mã có nhiều, gã đã từng nhờ chúng mà có thu nhập và chính tay gã đã bắt sống đến vài trăm con.
; Chim bị tịch thu, người bị giữ lại lập biên bản, lấy lời khai. Trương Cảm chẳng hề dấu diếm, hỏi chi nói nấy, gã nói cả những điều cán bộ kiểm lâm chưa hỏi, ví như rừng Bạch Mã có những loài chim gì, thú gì cánh rừng nào nhiều chim này (Trĩ sao) nhất, gấu ngựa sống nơi nào trong điệp trùng Bạch Mã kia... Đương nhiên gã chẳng nói đến việc gã đã từng dùng súng AR15 bắn hạ đến vài chục chú gấu ngựa có cái yếm chữ “Vê” màu trắng đeo trước cổ. Thấy gã trai quê phạm trọng tội này có vẻ chất phác, thật thà và am hiểu núi rừng đến kì lạ, những người kiểm lâm thay đổi thái độ, vui vẻ chuyện trò và xế chiều thì giục cậu ta ra về, còn gửi cho 15 ngàn đồng để làm lộ phí. Trương Cảm cũng hứa như chém đá là từ nay không đi rừng nữa.
Đó là chuyện của người cán bộ kiểm lâm đang làm nhiệm vụ cùng bảy đồng nghiệp cai quản 1700 héc ta rừng nguyên sinh đặc dụng trong tổng thể 22031 héc ta vườn Quốc gia Bạch Mã. Chuyện của mười sáu năm về trước. Sau lần bị mất chim đó, Cảm giữ đúng lời nguyền, không tơ hào gì đến những cám dỗ của rừng thiêng, ở nhà cấy hái. Có được ít vốn cu góp thời săn bắn, gã đào ao nuôi cá, mở mang vườn tược, định bụng kiếm cô vợ nhà nông theo nghề cấy hái an phận thủ thường. Bỗng một hôm có đoàn người cả ta cả Tây kéo về tìm Cảm. Hoảng sợ vì nghĩ họ về để bắt tội ngày trước, Trương Cảm chuồn một mạch vào rừng không dám ở nhà. Khi đã yên ắng, Cảm lần về nhà thì nhận được một lá thư gửi lại. Nội dung lá thư đề nghị hợp tác để tìm, xác định nơi sinh sống của loài trĩ sao ở khu vực khe Ao - Nam Đông trong rừng Bạch Mã. Chưa hết hoài nghi, Cảm im lặng không trả lời. Nhờ ông bà Trương (bố mẹ Cảm) và chòm xóm động viên, thuyết phục, Cảm đã đồng ý dẫn Tiến sĩ Cray cùng ba đồng nghiệp của ông lặn lội suốt ba ngày trong rừng để chứng kiến 4 chú trĩ sao bị mắc bẫy treo của Trương Cảm. Chỉ một đoạn dây ni lông màu trong suốt và rất bền, Cảm vít một cây rừng nhỏ xuống làm chiếc cần bẫy. Một tiếng “Vút” nhẹ là chú trĩ diêm dúa kiêu sa đã giãy đành đạch, treo lơ lửng giữa lối đi. Chính nhờ minh chứng này mà dự án đưa Bạch Mã trở thành vườn Quốc gia được đẩy nhanh tới hiện thực. Tháng 8 năm 1988, anh Huỳnh Văn Kéo ở Cầu Hai vào tìm Cảm khi anh chàng đang gặt lúa ngoài đồng. Anh Huỳnh Văn Kéo (nay là Tiến sĩ, Giám đốc vườn Quốc gia Bạch Mã) với tư cách là Trưởng ban rừng cấm Bạch Mã đã nhận thấy sự cần thiết trong cơ quan mình có những người am hiểu rừng và động vật, tài nguyên rừng Bạch Mã như Trương Cảm và Cảm trở thành người nhà nước từ dạo ấy.
; Chuyện Cảm gặp trĩ sao là do một lần đi tìm trầm hương trên lối mòn ở quảng cây số 8 đường lên Bạch Mã - nay gọi là đường mòn du lịch Trĩ sao, tình cờ anh chàng phát hiện một con chim lạ có đuôi dài, lông màu hung với nhiều chấm sao sáng đang múa lượn một mình trên một bãi đất bằng phẳng được dọn rất sạch sẽ . Anh chàng tò mò ngồi ngó trộm tay diễn viên kì diệu với điệu vũ mê hồn đang tự mình thưởng thức tài nghệ của mình. Hóa ra chẳng phải gã chim đẹp mã đó chỉ có một mình, lát sau một con chim cái sà từ trên cây xuống, ý chừng cô ả quan sát anh chàng múa máy từ lâu. Sau một hồi ve vãn, chúng tự tình theo kiểu các loài lông vũ rồi dìu nhau đi kiếm mồi. Con chim đực khoái chí thốt lên những tiếng “toóc... toóc... ù ơ...ù ơ...” tựa như tiếng vượn kêu. Trương Cảm chợt nảy ra ý định bắt chước tiếng tỏ tình của loài chim lạ đó để lừa chúng vào bẫy và chính đôi chim ấy là nạn nhân đầu tiên của gã. Cũng từ mẹo vặt này mà hắn đã bắt chước được nhiều tiếng nói của các loài chim ở Bạch Mã.
Tất cả những quá khứ tội lỗi với muông thú, với rừng thiêng ngày xưa luôn thường trực trong ý nghĩ, trong trái tim người cán bộ kiểm lâm bây giờ. Như để chuộc cái tội sát sinh bậy bạ ngày ấy, Cảm lao vào công việc chăm sóc, bảo vệ rừng một cách say sưa, tự nguyện. Chiếc xe máy của anh vất bất cứ đâu trên con đường ngược lên đỉnh cao Bạch Mã cả buổi, cả ngày để ông chủ lặn vào trong bạt ngàn xanh cây lá, theo dõi động tĩnh của kẻ lạ có ý định chấm mút tài nguyên, có hành vi gây hại cho môi sinh và động thực vật ở đây. Nhờ am hiểu chim muông qua ngôn ngữ của chúng, Cảm biết được thiên nhiên gắn bó với cuộc sống của muôn loài mật thiết ra sao. Ví như chỉ nghe tiếng dồn dập của chim cu rúc là biết trời sẽ nắng hạn dữ dằn, chuẩn bị mà phòng chống cháy rừng. Tiếng tắc kè kêu chẵn lẽ cũng cho anh biết trời mưa hay nắng. “Cư dân” ở rừng cũng như dưới xóm nhà Cảm, có kẻ tốt người xấu. Ví như loài chim tìm vịt có tiếng kêu hèn mọn “ri ri... hết...hết...hết...” là kẻ tiểu nhân nhất ở đây. Những ả tìm vịt sau khi ngứa nghề liền tìm đến tổ chim sâu, chim khuyên, nấp rình cạnh đấy chờ cho các chị chim xinh xắn mà ngờ nghệch bay ra khỏi tổ đi kiếm mồi là chúng sà vào chén sạch những quả trứng nhỏ xíu rồi rặn trứng của mình vào, tẩu mất dạng. Tội nghiệp mấy chị khuyên, sâu hiền giả hóa ngu xoãi cả cánh cả đuôi ra mà ôm ấp mấy quả trứng to đùng của lũ “điểu tặc”, lại còn gò lưng nuôi lũ quái con có cái xác to gấp mấy lần mình để đến khi chúng đủ lông cứng cánh là tè ra mấy bãi rồi dông mất tiêu theo bầy đàn nhà tìm vịt đểu giả. Mỗi khi thấy bóng dáng loài quỷ sứ ấy là Cảm nhặt sỏi ném vù vù xua đuổi. Cũng chỉ cho bõ ghét thôi, dù thế nào đi nữa thì chúng cũng là công dân hợp pháp của rừng xanh, chẳng ai có quyền giết bỏ chúng. Trái ngược với chim tìm vịt “ích kỉ hại nhân” là loài chèo bẻo “dũng sĩ”. Cảm coi chèo bẻo là kẻ quân tử nhất đời. Đội cảm tử quân này sinh ra để bảo vệ sự bình yên cho đồng loại, xua đuổi hung thần quạ đen, ác là, diều hâu, cắt cắt... Cả khu rừng đang ríu rít yên vui bỗng một bóng đen cú vọ xéo qua, lập tức âm thanh ríu ran im bặt nhường chỗ cho tín hiệu hiểm nguy đe dọa. Ai lo thân nấy, cả làng chim vội vàng lẩn trốn bọn săn mồi. Chính khi ấy, những chiếc “Mích” nhỏ xíu với chiếc mỏ nhọn hoắt xòe cặp đuôi dài hình chữ V như đuôi én vút thẳng lên không trung, bám sát những cánh bay ác quỷ và tới tấp những đòn búa bổ nhằm vào chỗ hiểm của lũ chim ăn thịt không biết tanh ấy. Không phải một chiếc “Mich” mà hai, mà nhiều mũi lao đen nhánh đồng loạt công kích đối phương. Họ hàng nhà chèo bẻo, ai có khả năng xung trận đều xông ra nghênh địch. Chỉ có kẻ quá liều lĩnh hoặc dại khờ mới lần khân trước đàn chim dũng sĩ này. Trời lại quang, mây lại tạnh, đàn chèo bẻo lại trở thành những nghệ sĩ với tiếng hót trong veo, với chiếc đuôi dài xòe ra như đuôi én nhún nha nhún nhảy trước sự biết ơn công lao che chở của làng chim “vô tích sự”. Tôi bảo Cảm: chim chèo bẻo là thần tượng của người Tây Nguyên, ở trên ấy người ta gọi chúng là chim Chơ rao, anh kinh ngạc và cảm động hỏi: “Thật thế ư? Em đọc thuộc trường ca Chim Chơ rao của Thu Bồn mà nào có biết Chơ rao là chim gì. Nếu phải vậy thì quá xứng đáng.”
Sau buổi đi rừng với Cảm, tôi trở lại tổ kiểm lâm của anh để chờ xe xuống núi. Cảm vội về vì chiều nay anh có việc dưới nhà. Những phút lân la cạnh các chàng trai giữ kho vàng xanh này, tôi biết thêm rằng trong 16 năm công tác ở đây, Trương Cảm đã được tặng nhiều bằng khen của ngành, của tỉnh, được bầu là chiến sĩ thi đua, đã từng được Đài truyền hình trung ương tặng Huy chương bạc về giải “Người gọi chim trời 2004”. Hóa ra là nhiều người đã biết đến anh rồi. Chẳng hiểu những điều tôi ghi ra đây có lạc hậu lắm không?